thân cho, rồi theo người ta đến Dương Châu, về sau vì đại phu nhân trong
nhà khắc nghiệt nên Ức Nương phải cầm một món tiền ra đi, mua một căn
nhà nhỏ, vào Vân Thiều Uyển Dương Châu làm cầm sư. Còn ta vẫn ở Lạc
Dương, mãi đến mấy năm sau nhận được thư, mới biết Ức Nương đang ở
Dương Châu. Thư rằng, Niệm Nương, năm xưa lúc trẻ chúng ta từng thề
sống chết có nhau, nay nếu có lòng, thì có thể nương tựa nhau đến già…”
Kể đến đây, Trần Niệm Nương cũng lã chã hai hàng nước mắt. Dẫu dung
nhan chẳng cách nào trẻ lại song nước mắt vẫn trong veo, “Bấy giờ ta ở
Lạc Dương, thường đến các nhà vọng tộc dạy đàn, cuộc sống không có gì
phải lo lắng. Song nhận được thư Ức Nương bèn gói ghém mấy bộ đồ đơn
giản nhất, xuôi Nam xuống Dương Châu. Ức Nương không bao giờ nhắc
lại cuộc sống mấy năm trước đó, ta cũng không muốn nói đến quá khứ của
mình, bởi chúng ta đều hiểu, giữa đôi bên không cần phải nói làm chi nữa.”
Bởi vậy, người bạn cũ của bà ấy, Niệm Nương cũng chẳng biết là ai ư?
Trần Niệm Nương thấy cô vẫn trầm tư, liền hỏi, “Tiểu công công, chuyện
này có liên quan gì tới việc tìm kiếm Ức Nương không?”
Hoàng Tử Hà ngập ngừng một thoáng rồi gật đầu, “Có điều phía bộ Hộ
chưa tìm thấy ghi chép, nên tôi định âm thầm tự tra xét xem, gần đây trong
cung xảy ra vài việc, tôi và người của bộ Hình cũng như Đại Lý Tự có gặp
nhau, nên tôi nghĩ không biết có thể nhân cơ hội này giúp bà tìm Ức Nương
hay không.”
Trần Niệm Nương vái cô một vái thật dài, đoạn nói, “Đa tạ tiểu công công!
Có gì xin cứ hỏi, nếu biết ta nhất định sẽ nói, đã nói nhất định sẽ nói hết.”
Hoàng Tử Hà vội đỡ bà ta dậy, “Theo tôi nghĩ, việc quan trọng nhất là tra
xem người nhờ bà ấy vào kinh là ai.”
“Trước đây ta cũng muốn dò hỏi, nhưng mà…” Trần Niệm Nương nghẹn
ngào, “Có điều, ta quả không có manh mối gì cả…”