vốn là những tay sành sỏi trong các sởi thi gà chọi, do đó mới thoáng nhìn
cú đá đầu tiên họ đã lập tức phát hiện ra những thủ đoạn ma quái của cha
Antôniô Isaben. Aurêlianô Sêgunđô, đứng xem những người anh em cùng
chung một bát máu sôi nổi chơi những trò vui vô tận đầy lý thú, đã quyết
định mời mọi người ở lại làm việc với mình. Người duy nhất chấp nhận lời
mời là Aurêlianô Tristê, một thanh niên lai đen lực lưỡng vốn kế thừa được
nhiệt tình hăng say và lòng ham tìm tòi khám phá của ông nội, người từng
nếm trải đủ mọi gian truân ở khắp nới, do đó anh cho rằng mình sống ở đâu
cũng vậy. Những người khác mặc dù vẫn còn chưa vợ, đã tự quyết định lấy
vận mệnh của mình. Tất cả đều là thợ thủ công thạo nghề, đều là trụ cột của
gia đình, đều là dân hiền lành. Ngày thứ tư Lễ tro, trước khi mỗi người một
ngả đi khắp vùng duyên hải, Amaranta tìm mọi cách để họ mặc quần áo
đẹp ngày chủ nhật và đưa bà đi nhà thờ. Thích thú hơn là sùng tín, họ đã để
cho mình bị cuốn vào tận nơi làm lễ kiên tin. Chính tại đây cha Antôniô
Isaben đã lấy tro vạch một chữ thập lên trán từng người. Về đến nhà, người
nhỏ tuổi nhất muốn lau trán đã phát hiện ra vết tro không thể rửa sạch
được, rồi ngay sau đó, cậu phát hiện ra vết tro của các anh cậu cũng không
thể rửa sạch được. Họ thử lấy nước xà phòng, rồi lấy đất và bã cọ, rồi lấy
đá kỳ và dung dịch kiềm, vẫn không tài nào xoá được chữ thập trên trán
mình. Trái lại, Amaranta và những người khác đi dự lễ mixa đều dễ dàng
chùi sạch chữ thập ấy trên trán mình. "Chúng ra đi như vậy càng tốt", -
Ucsula nói, - "Từ đây trở đi không một ai có thể nhầm lẫn chúng". Họ ồn ĩ
ra đi trong tiếng pháo và âm nhạc đưa tiễn, và để lại cảm giác rằng dòng họ
Buênđya đã gieo giống ở khắp mọi nơi cho muôn đời. Aurêlianô Tristê, với
chữ thập xám màu tro trên trán, đã lập ở ngoài bìa làng một nhà máy làm
nước đá mà Hôsê Accađiô Buênđya từng mơ thấy trong những đam mê
sáng tạo của cụ.
Ở được mấy tháng, nghĩa là khi đã là người quen thuộc và được mọi người
trọng nể, Aurêlianô Tristê đi tìm một ngôi nhà để đưa mẹ và cô em gái chưa
chồng (vốn không phải là con gái ngài đại tá) đến ở với mình và anh thích
ngôi nhà cổ lỗ dường như bỏ hoang ở phố gần quảng trường. Anh hỏi ai là
chủ ngôi nhà ấy. Có người bảo anh rằng đó là nhà vô chủ, rằng trước đây có