khuya, cái loại thời giờ xấu này đã buộc cụ phải bỏ dở công việc. Thực ra
là Ucsula cưỡng lại tuổi già ngay cả khi không còn nhớ được tuổi của mình
và tập tễnh đi lại khắp nơi, và việc gì cụ cũng cố dự phần, rồi trêu chọc đám
khách lạ bằng những câu hỏi đại loại như hồi chiến tranh có gửi ở nhà này
một bức tượng thánh Hôsê bằng thạch cao để gia đình trông nom hộ trong
mùa mưa hay không. Không ai biết đích xác cụ bị mù từ khi nào. Ngay cả
những năm cuối đời khi cụ đã phải nằm liệt giường thì ai cũng tưởng cụ
nằm liệt giường là vì già lão thôi, chứ không ai phát hiện được cụ đã bị mù.
Cụ đã nhận thấy điều đó từ trước khi sinh Hôsê Accađiô. Thoạt tiên cụ
tưởng đâu là mắt chỉ đau qua loa, bèn uống vụng rượu hổ cất và lấy mật
ong nhỏ vào mắt, nhưng chẳng bao lâu cụ nhận thấy rằng mắt mình ngày
càng mờ đi một cách vô phương cứu chữa đến nỗi cụ không bao giờ có
được khái niệm rõ ràng về đèn điện, vì khi những bóng điện đầu tiên được
mắc lên thì cụ chỉ còn cảm thấy một luồng sáng lờ mờ. Cụ không nói với ai
bởi vì như vậy có nghĩa là công khai thừa nhận sự bất lực của mình. Cụ
lặng lẽ học phân biệt khoảng cách các vật thể, giọng nói của từng người, để
tiếp tục nhìn bằng trí nhớ khi mắt đã mờ hẳn. Về sau cụ đã bất ngờ phát
hiện ra tác dụng của mùi vị giúp mình xác định các vật thể trong cảnh tối
tăm mờ ảo còn tốt hơn cả hình khối và màu sắc, và chúng đã giúp cụ vĩnh
viễn thoát khỏi mối nhục ăn báo cô. Trong bóng tối của căn phòng cụ có
thể xâu kim và thùa được khuyết áo, và biết được khi nào thì xoong sữa sắp
sôi. Cụ nhớ rõ ràng vị trí của từng đồ vật trong nhà tới mức chính cụ có lúc
cũng quên rằng mình đã bị mù. Có một lần, Phecnanđa làm ầm ĩ cả nhà vì
chiếc nhẫn cưới biến đâu mất, thế mà Ucsula lại tìm thấy trên một chiếc giá
để đồ vật trong phòng ngủ của đám trẻ. Chả là trong khi mọi người đi lại
lung tung khắp nhà, cụ căng bốn giác quan của mình lặng lẽ theo dõi họ để
khỏi bị bất ngờ, nên sau một thời gian cụ phát hiện ra rằng mỗi người trong
gia đình này ngày nào cũng giống như ngày nào, đều lặp đi lặp lại chính
những lối đi ấy, chính những công việc ấy, thậm chí còn lặp lại những câu
nói giống nhau vào cùng một giờ nhất định mà không hay biết gì. Chỉ khi
nào họ không tuân theo cái đường mòn chi ly ấy thì mới có thể mất cái gì
đó. Vậy nên khi nghe Phecnanđa hốt hoảng la lối là bị mất chiếc nhẫn thì