mình đang bị rượu vật đổ, cô ngồi xuống bên chiếc bàn Phecnanđa và
Amaranta đang lặng lẽ ăn cơm tối. Trước đó cô đã trải qua hai giờ khủng
khiếp ở trong phòng một người bạn gái, khóc lóc hoài vì buồn và vì sợ hãi,
và ở bờ bên kia cuộc khủng hoảng tâm trạng ấy cô bắt gặp một cảm giác
dạn dĩ rất lạ lùng mà mình vẫn còn thiếu để trốn khỏi trường học, để nói
với mẹ mình bằng những lời này lời nọ khiến bà phải nổi cáu về cây đàn
tiểu dương cầm. Ngồi ở ngay đầu bàn ăn, đang húp bát nước canh gà mà
khi vào tới dạ dày nó giống như một thứ thuốc tiên làm sống lại người chết,
Mêmê nhìn thấy Phecnanđa và Amaranta chìm trong vắng ánh sáng khắc
nghiệt của thực tại. Cô phải cố gắng tự kìm mình để khỏi nói thẳng vào mặt
họ về những sự giả tạo, về trí tuệ nghèo nàn và những thèm khát danh dự
hão của họ. Kể từ kỳ nghỉ hè thứ hai trở đi, cô biết rằng cha mình chỉ sống
ở nhà để giữ thể diện và nhờ hiểu Phecnanđa như đã hiểu bà và nhờ đã giúp
bà để sau đó hiểu Pêtra Côtêt, cô đã tán thành cha mình. Cũng có lúc cô
muốn làm con gái của người tình của cha mình. Trong hơi men chếnh
choáng, Mêmê đã nghĩ rằng nếu như thời điểm ấy cô bày tỏ những suy tư
của mình thì chắc mọi người không khỏi ngạc nhiên và niềm vui thầm lặng
của trò ranh mãnh lộ ra quá ư mạnh mẽ đến mức Phecnanđa đã nhận ra:
- Con làm sao vậy? - bà hỏi.
- Chẳng làm sao cả, - Mêmê trả lời. - Hầu như đến tận bây giờ con mới phát
hiện ra là con yêu bà trẻ và mẹ biết nhường nào.
Amaranta giật mình nhận thấy rất rõ trong câu trả lời ấy có hàm chứa ý tứ
căm giận. Trái lại Phecnanđa rất cảm động đến nỗi bà thấy mình lại phát
điên khi Mêmê thức dậy vào lúc nửa đêm đầu cứ ngọ nguy vì đau đớn và
cứ nghẹn thở vì những cứ nôn ra mật. Bà đưa cô một lọ dầu hải ly, đắp lên
bụng cô một lá cao mù tạc và chườm lên đầu cô một túi nước đá, rồi bà bắt
cô ăn kiêng và ở trong nhà kín gió suốt năm ngày liền theo đơn thuốc của
viên bác sĩ ngông cuồng người Pháp mới đến, người sau hai giờ khám bệnh
đã đi đến kết luận quái gở: cô gái bị rối loạn kinh nguyệt. Trong trạng thái
tinh thần suy sụp, Mêmê không còn cách nào hơn là nín lặng. Ucsula lúc
này tuy đã mù hẳn nhưng vẫn hoạt bát và sáng láng, là người duy nhất đã
chẩn đoán chính xác. "Ðối với ta, - cụ nghĩ, - những triệu chứng này là