cổ xưa nhất của mình trỗi dậy trong cái thiên đường ẩm ướt và quạnh hiu
này, cái thiên đường còn xa xưa hơn cả cái thiên đường ở đó giống người
đã phạm tội tổ tông, là nơi ủng ngập sâu trong thứ nước bùn giống như dầu
bốc hơi và những con dao rựa phải hạ xuống chém ngang thân những cây
hoa loa kèn trắng và những chú kỳ nhông vàng ươm. Trong suốt cả một
tuần, hầu như không ai mở miệng nói lấy một lời, với bộ ngực tức thở bởi
thứ không khí khô nóng tanh mùi máu, bọn họ đi như những kẻ mắc chứng
mộng du trong một thế giới ảm đạm, hầu như chỉ được soi sáng nhờ lùa
đom đóm lập loè.
Họ không thể quay lui được vì con đường được mở ra theo dấu chân họ
chẳng bao lâu đã bị thứ cây cỏ mới, lớn nhanh tưởng như nhìn thấy được,
lấp mất lối. "Đừng sợ", Hôsê Accađiô Buênđya nói: "Cất nhất đừng để mất
phương hướng". Không lúc nàn rời mắt khỏi la bàn, ông hướng đạo mọi
người trong đoàn đi về phương bắc, cho tới khi họ ra tới một vùng đất thú
vị. Đó là một đêm tối mịt mùng, không một vì sao, nhưng lại là một đêm
thoáng đãng nhờ không khí mới mẻ và trong trẻo. Qua chuyến xuyên rừng
dài ngày, mọi người đều mệt phờ vội đi mắc võng và lần đầu tiên trong hai
tuần liền họ say sưa ngủ. Khi thức dậy, mặt trời đã lên cao. Họ đều hào
hứng. Trước họ là một chiếc tàu Tây Ban Nha khổng lồ, màu trắng và bụi
bậm, nổi lên giữa những cây dương xỉ và chà là trong ánh sáng ban mai dịu
dàng.
Nó nằm nghiêng về mạn phải. Những mảnh buồm rách còn treo trên những
cột buồm nguyên vẹn, nằm giữa những thừng chão có kết hoa nguyệt quế.
Thân tàu, được lớp vẩy cá ép đã hoá đá và lớp rêu xanh phủ kín, hoàn toàn
bị gắn chặt xuống nền đá.
Toàn bộ cấu trúc của nó dường như chiếm cứ cả một khung cảnh riêng, cái
khung cảnh cô đơn và lãng quên, cái khung cảnh được bảo vệ trước sự phá
phách của thời gian và chim chóc. Ở bên trong tàu mà những người thám
hiểm đã khéo léo mở được cửa, không có gì khác hơn là một rừng hoa chen
kín.