lại vung chân mạnh đến nỗi suýt ngã nhào ra khỏi chiếc xe đang lao vun vút.
Không lâu sau, họ nhìn thấy các tòa tháp và cờ quạt của Thành phố Từ
Điển long lanh trong nắng ở đằng xa, và trong thoáng chốc, họ đã đến bức
tường thành cao vút và đứng trước cổng vào thành phố.
“EEEE HÈÈMM,” người gác cổng hắng giọng thật to và giậm chân
đứng nghiêm. “Đây là Thành phố Từ Điển, một vương quốc hạnh phúc, nằm
ở vị trí đắc địa ngay dưới chân Đồi Hỗn Loạn và được hưởng những làn gió
mát lành từ Biển Kiến Thức. Hôm nay, theo sắc chỉ của đức vua, là phiên
chợ. Các bạn đến để mua hay bán?”
“Ông nói sao kia ạ?” Milo hỏi.
“Mua hay bán, mua hay bán,” người gác cổng sốt ruột nhắc lại. “Là cái
nào? Cậu phải có lý do gì thì mới đến đây chứ.”
“Ờ, cháu…”
“Kìa, nếu không có lý do thì cậu cũng phải có một lời giải thích hay
một cái cớ nào đó chứ,” người gác cổng ngắt lời.
Milo lắc đầu.
“Nghiêm trọng đấy, việc rất nghiêm trọng đấy,” người gác cổng cũng
vừa lắc đầu vừa nói. “Nếu không có lý do chính đáng thì cậu không thể vào
được.” Ông ta ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp. “Đợi một phút nhé, có thể tôi
còn một lý do cũ đâu đây cho cậu dùng tạm.”
Ông ta lấy từ chòi gác ra một cái va li cũ kỹ và bắt đầu lục tìm trong
đó, vừa lục vừa lẩm bẩm, “Không… không… không… cái này không được.,
không… hừmmm… à, được đây,” ông ta reo lên đắc thắng và giơ ra một sợi
dây đeo cổ, có gắn một cái huy chương nhỏ. Ông ta phủi bụi trên mặt huy
chương, để lộ ra dòng chữ “TẠI SAO KHÔNG?” khắc trên đó.
“Đây là một lý do thích hợp cho hầu hết mọi việc – hơi cũ một chút,
nhưng vẫn còn dùng được.” Nói rồi ông ta quàng sợi dây lên cổ Milo, đẩy
cánh cổng nặng bằng sắt ra, cúi đầu chào và ra hiệu cho họ tiến vào thành
phố.