“Phù thủy ấy ạ?” Milo run rẩy hỏi.
“Ừ, bà ta đã ở đây lâu lắm rồi,” ông ta nói và đi xuôi một hành lang
khác.
Mấy phút sau, họ đã đi qua ba cánh cửa, một cây cầu cạn hẹp, xuôi hai
hành lang và một cầu thang nữa, và cuối cùng đứng trước cửa một xà lim
nhỏ.
“Đây rồi,” viên cảnh sát nói. “Đủ mọi tiện nghi như ở nhà.”
Cửa mở ra rồi đóng lại, và Milo cùng với Tock đứng trơ ra giữa một xà
lim trần cao có mái vòm, với hai ô cửa sổ nhỏ xíu nằm tít trên cao.
“Hẹn gặp lại cậu sau sáu triệu năm nữa,” Sĩ quan Cáo Buộc nói, rồi
tiếng bước chân ông ta nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi tắt lịm.
“Tình hình có vẻ căng, Tock nhỉ?” Milo buồn rầu nói.
“Đúng vậy,” chú chó trả lời, đánh hơi loanh quanh xem chỗ ở mới của
họ ra sao.
“Bọn mình sẽ làm gì trong suốt thời gian đó cơ chứ; bọn mình còn
chẳng có lấy một bàn cờ hay hộp bút màu.”
“Đừng lo,” Tock gừ gừ, giơ một chân lên an ủi, “rồi sẽ có thứ gì đó
xuất hiện thôi. Cậu làm ơn lên dây cót hộ tôi được không? Tôi sắp dừng lại
mất rồi.”
“Cậu biết sao không, Tock?” cậu vừa nói vừa lên dây cót cho chú chó.
“Ta có thể gặp rất nhiều rắc rối khi lẫn lộn các từ hoặc không biết cách đánh
vần đấy. Nếu chúng ta ra khỏi đây được, tớ sẽ quyết tâm học cho bằng hết.”
“Một tham vọng rất đáng khích lệ, chàng trai trẻ ạ,” một giọng nói ở
đầu bên kia xà lim vang lên.
Milo kinh ngạc ngẩng lên và giờ mới nhìn ra, trong cảnh tranh tối tranh
sáng, một bà già hiền lành đang ngồi lặng lẽ đan len trên chiếc ghế đu.
“Chào bà ạ,” cậu nói.
“Chào cháu,” bà già đáp.