ruộng nước (thuỷ canh hay nông hệ sawah) mà họ đem theo. Điểm này đã
giúp những người nghiên cứu phân biệt được họ với những thổ dân cổ chỉ
có biết đốt rừng làm rẫy (hoả canh hay nông hệ ladang).
Tạm gác lại nhóm Lạc Việt mà chúng tôi sẽ đề cập tới trong chương sau,
chúng ta có thể theo dõi ngay nhóm Indonesian còn lại, tức người Malay.
Người Malay đã nam thiên thành hai đợt chính. Malay đợt trước (cựu) có lẽ
di chuyển rải rác từng nhóm nhỏ, nên thường sinh hoạt lẫn lộn với các sắc
dân đã có trước ở đây và đồng thời pha giống nhiều ít với các sắc dân ấy.
Malay đợt sau (tân) thiên di ào ạt hơn, tạo thành những tập thể lớn và choán
các vùng màu mỡ. Họ xuống các đảo Đông Nam Á, thường chiếm ngụ các
vùng bình nguyên nhỏ ở duyên hải, nên cũng còn được gọi là Malay duyên
hải. Xét về nhân chủng họ còn giữ được khá nhiều bản sắc “da vàng miền
nam” của các sắc dân Bách Việt. Ngày nay, họ là thành phần dân cư chính
của Mã Lai Á, Indonesia, Phi Luật Tân.
Khi choán các đảo, họ tiến từ Mã Lai sang Sumatra, Java, rồi Bornéo,
Cèlèbes, sau cùng mới tới quần đảo Phi Luật Tân. Lúc đầu họ tới Phi Luật
Tân rất ít, mãi đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, họ mới từ các đảo
miền nam kéo sang với số lượng lớn. Lúc này, các sắc dân Bách Việt ở
Đông Nam Á hải đảo cũng theo gót lục địa đã tiến tới thời đại đồ sắt. Nền
văn hoá đồ đồng, đồ sắt theo khuôn mẫu và hình thức nghệ thuật Lạc Việt
lan tràn khắp nơi. Tại Phi, các sắc dân gốc Bách Việt ngày nay chiếm trên
90%, trong khi thổ dân cổ chỉ có vào khoảng dưới 10% và thường ở trong
vùng rừng núi. Danh từ “Tagalog” ở Phi cũng giống như danh từ “Người
Kinh” (người miền xuôi) của ta, thường để phân biệt với người Thượng
(người miền núi). Người miền Xuôi ở các đảo vẫn theo truyền thống ruộng
nước từ hai nghìn năm nay.
Thời kỳ 2
Thời kỳ nam thiên thứ nhì gồm người Môn và Khmer. Người Môn từ Nam