Thai tự tuyển chọn các viên chức cao cấp ở triều đình trong đám hoàng tộc,
còn những chức vụ thấp hơn có thể là người trong hoàng tộc hoặc thứ dân.
Năm 1376, nhà vua ra lệnh kiểm tra dân số và kết quả cho thấy trong nước
có 300.000 đàn ông Thái và 400.000 đàn ông các bộ tộc khác. Nếu cộng
thêm đàn bà, trẻ con, sư sãi thì tổng số chừng 2 triệu. Dựa vào con số đàn
ông Thái, nhà vua lấy vương hiệu là Phya Sam See Thai, vị chúa 30 vạn
Thái. Theo người Lào kể lại (có lẽ được phóng đại) thì quân đội Lan Xang
thời đó gồm có 150.000 quân sĩ thuộc bộ binh, kỵ binh và tượng binh, và
200.000 phụ lực quân thuộc thành phần cơ hữu của các địa phương.
Từ đầu thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 17, Lan Xang đã nhiều lần xung đột với
các lân bang, đặc biệt là cuộc tranh chấp Chiêng Mai với Xiêm và Miến.
Trong vụ này, tuy Lan Xang không đạt được mục tiêu quân sự, đành để xứ
Chiêng Mai lọt vào tay Miến (sau này Xiêm chiếm lại của Miến), nhưng
Setthathirath, vị hoàng tử Lào, trên đường rút lui đã mang theo được về
nước Phật ngọc Pra Keo, một báu vật của Chiêng Mai thời đó (1547). Lan
Xang cũng đã có nhiều lần đụng chạm với Đại Việt qua những cuộc quấy
phá ở biên thùy trong khi Việt đang có chiến tranh với Trung hoa. Để trả
thù triều đình Việt đã có lần xua quân chiếm đóng kinh đô Mương Swa, tức
Luang Prabang (Prabang: Phật vàng) sau này.
Đầu thế kỷ 18, trong cuộc tranh chấp giữa các ông hoàng Lan Xang, người
Việt đã giúp Sai Ong Hué trở lại ngôi báu ở Vientiane. Nhưng đồng thời
cháu đích tôn vua Lan Xang cuối cùng (Souligna Vongsa) là Kitsarath chạy
lên Luang Prabang lập triều đình ở đó (1707). Và 6 năm sau, một ông
hoàng khác trong hoàng tộc lập một triều đình thứ ba ở Champassak, một
mình riêng cõi Hạ Lào. Nước Lan Xang thống nhất chấm dứt từ đó và xứ
Lào trở thành ba tiểu quốc luôn luôn ở trong tình trạng bán lệ thuộc dưới sự
kiềm chế của cả Việt và Xiêm. Tình trạng này kéo dài cho đến khi bị Pháp
đô hộ.
Tổ Hợp Miến Điện