quá trình giải phóng mặt bằng, nghe nói miếu Quan Âm cũng nằm trong diện
bị di dời.
Đám Chu Khôn khi đi ngang qua miếu Quan Âm thì thấy có mấy thôn
dân đang chuyển gạch tu sửa tường bao, bãi cỏ trước miếu có dấu vết bị giẫm
đạp hết sức nghiêm trọng, một ông già vốn đang đứng trước cổng móc thuốc lá
ra hút, vừa thấy có người liền hùng hổ đi tới, cất giọng hỏi rất thô lỗ: “Này,
mấy người kia, đến đây làm gì?” Giọng điệu ông ta cực kỳ không thân thiện.
Chu Khôn lấy vẻ mặt tươi cười, nói: “Chúng cháu đến khu quanh đây để
du lịch và vẽ cảnh thực tế, đúng lúc đi ngang qua miếu, đang muốn vào trong
thắp nén nhang.”
Lý An Dân và Cao Hàm rất biết phối hợp, nghiêng người lộ ra dụng cụ vẽ
tranh, Chu Khôn móc một bao thuốc dâng lên, sắc mặt ông cụ hơi hòa hoãn trở
lại, lẩm bẩm nói: “Miễn không phải chó săn ở trên phái xuống là được.”
Chu Khôn vờ như không nghe thấy, dù đã biết rõ vẫn hỏi: “Tường của
miếu này sao lại sập vậy ạ?”
Một người khác trên đầu quấn băng vải cầm xẻng gõ lên mặt viên gạch
mắng to: “Đều là do con chó hoang thất đức kia đấy, ngay cả miếu thờ Quan
Âm Bồ Tát mà cũng dám động vào, nên nó mới gặp báo ứng!”
“Nó” đây là đang ám chỉ người nào, trong lòng ai nấy đều hiểu rõ.
Quy mô gian miếu Quan Âm này không lớn, chỉ gồm hai gian điện thờ
được ngăn bởi một bức tường, chính điện thờ một pho tượng Quan Âm bằng
đất sét, toàn thân tượng màu xám tro, chỉ có dọc theo cánh tay, từ khuỷu tay trở
xuống chuyển dần từ đỏ nhạt sang đỏ mận, chuyển màu dần dần từ nhạt tới
đậm, từ xa nhìn lại giống như đang đeo một bộ găng tay màu đỏ. Tượng Quan
Âm rất cũ kĩ, bên trong miếu đường lại được quét dọn sạch sẽ không vương