chán, cứ như dù có gọi bao nhiêu chăng nữa thì vẫn chưa đủ. Cô vươn tay khẽ
vuốt ve gò má nhơm nhớp ngay trước mặt, hôn lên xương gò má cùng răng của
anh.
Đã mấy ngày rồi cô cũng chẳng nhớ rõ, không biết phải đợi đến bao lâu,
lòng đất vang lên một tiếng nổ ầm, lũ chuột xông ra từ trong những hố nông, tế
đàn bằng đá bay lên cao, bọ cánh cứng màu xám trắng tuôn ra ngoài. Lý An
Dân choàng qua người Diệp Vệ Quân bảo vệ thân thể của anh, nhưng lũ chuột
còn chưa xông tới tế đàn thì tượng Quan Âm tay đỏ đã xuất hiện, tảng đá lơ
lửng giữa không trung phát ra một chùm tia sáng bảy màu lộng lẫy, bắn vào
trong gương đồng, ánh kim quang phản chiếu sáng rực.
Nhãn cầu Diệp Vệ Quân khẽ rung động, con ngươi vốn nở to bắt gặp ánh
kim quang kia co lại vào một chút, toát ra tia sáng nóng bỏng của niềm mong
mỏi bức thiết và khao khát. Anh vươn một cánh tay về phía đại dương màu
vàng bên trên, hàm răng khẽ rung động.
Lý An Dân nâng đầu Diệp Vệ Quân lên, kề tai vào thật sát, cất giọng nhẹ
nhàng: “Anh Vệ Quân, em ở đây này, anh muốn nói gì? Em đang nghe đây.”
Ánh mắt Diệp Vệ Quân dần có thần, con ngươi dần dần nở ra, câu nói mơ
hồ không rõ cũng thoát ra khỏi cổ họng cùng với một hơi thở sau cuối:
“Mau nhìn xem… An Dân… Hoa sen trên hồ Bành Hoài đã nở rồi…”
Lý An Dân biết đến hồ Bành Hoài qua câu chuyện anh kể, cái hồ ấy bây
giờ đã không tồn tại nữa rồi, cô cũng chưa hề thấy qua bao giờ, nhưng lúc Diệp
Vệ Quân nỉ non ba chữ “hồ Bành Hoài” bên tai, trước mắt cô liền hiện ra một
khoảng màu xanh biêng biếc, mặt nước rợp bóng hoa sen, sắc hồng như giai
nhân. Một chiếc thuyền câu chậm rãi xuyên qua những mảnh lá sen, thiếu niên
mặc áo đen cộc tay sải bước lên đầu thuyền, dùng cây sào dài mà đẩy thuyền
đi, ngồi sau lưng cậu là một cô bé buộc tóc hai bên đang vươn người ra ngoài