Hoa láng giềng, những người An Nam theo chủ nghĩa dân tộc và những
người An Nam theo chủ nghĩa cộng sản bắt đầu tổ chức hàng ngũ mình
chặt chẽ hơn. Cuộc Đại Khủng hoảng Kinh tế năm 1929 với việc lúa gạo bị
sụt giá thê thảm làm cuộc sống gian khổ thêm, thậm chí nạn đói lan tràn tại
nhiều vùng đất thuộc lãnh thổ Đông Dương, khiến tâm trạng nổi loạn ngày
càng bén nhạy và sôi động hơn.
Hậu quả của những tác động mạnh mẽ và hỗ tương đó là các phong trào
chống Pháp —trước đây vốn là phạm vi dành riêng cho giới sĩ phu An Nam
thừa quyết tâm nhưng thiếu tổ chức chặt chẽ, được đánh dấu chấm dứt vào
thời điểm 1926 với phong trào đòi ân xá cho Phan Bội Châu, và sự từ trần
của Phan Châu Trinh tại Sài Gòn — nay vào lúc kết thúc thập niên 1920
này, bắt đầu khuấy động các tầng lớp trí thức trung lưu trong công sở,
trường học và các tập thể quần chúng đang lao động cực nhọc trên ruộng
lúa, trong hầm mỏ và đồn điền cao su.
Ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc từ tay giới nho sĩ cựu học trong các
phong trào Cần vương, Văn thân, Duy tân, Đông du, Đông kinh nghĩa thục,
Quang Phục, v.v. khép lại với sự kiện Phạm Hồng Thái của Tâm Tâm Xã
ám sát hụt Toàn quyền Merlin tại Quảng Châu năm 1924, từ đó mở ra một
giai đoạn mới. Ở Paris có Đảng Việt Nam Độc Lập do Nguyễn Thế Truyền,
Phan văn Trường tổ chức trong giới sinh viên và anh em làm tàu biển. Hà
Nội và Huế có Đảng Phục Việt, tiền thân của Tân Việt Cách Mạng Đảng
với Lê Huân, Nguyễn Xuân Chữ, Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh... Bắc kỳ
có Nam Đồng Thư Xã với Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống, Nguyễn Thái
Học, hạt nhân trổ ra VN Quốc Dân Đảng, như một hành động cuối cùng
chống Pháp bằng bạo động. Nam kỳ có Hội Kín Nguyễn An Ninh. Rồi ba
chi phái cộng sản Quốc Tế Đệ Tam: tháng 6.1929, Đông Dương Cộng Sản
Đảng; tháng 10, VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội biến thành An
Nam Cộng Sản Đảng; và qua tháng 1.1930, một số đảng viên Tân Việt
tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.
- 1 -
Như mọi năm, đêm nào gió mùa bắc nam điên cuồng cũng tạt mưa như trút