nghiệp. Và thậm chí hiện nay, chú em Guy của tôi cũng đã trở lại đây cho
một nhiệm kỳ phục vụ thứ hai tại Toà Đại sứ. Như thế, thình lình tôi cảm
thấy mình như người phạm tội thêm lần nữa. Và vì thế, quyết định đầu tiên
của tôi là viết một lá thư riêng cho Hồ Chí Minh về Mark. Hồi cuối Thế
Chiến Hai, tôi cùng với một đơn vị OSS được thả dù xuống Bắc kỳ. Lúc đó
tôi gặp ông Hồ và quen biết khá nhiều với ông ấy. Tôi đi gặp người vợ cũ
của mình, thảo luận ý tưởng đó, và tình cờ cô ấy đưa cho tôi xem một lá thư
của Mark. Nó chuyển một lời nhắn không đầu không đuôi mà chính nó
cũng không hiểu, từ một cô gái ở Đà Nẵng mà nó nghĩ cô ta xưng tên là
“Tuyết”...
Hai mắt Naomi bỗng tròn xoe:
- Và anh nghĩ có thể tìm được đứa con gái mất tích của mình! Có phải đó là
lý do thật sự khiến anh trở lại đây?
Mỉm cười như thể thú nhận rằng chẳng có gì đáng hãnh diện về một động
cơ như thế, Joseph miễn cưỡng gật đầu:
- Tôi nghĩ nếu thành thật thì mình phải thừa nhận rằng lúc đó, đột nhiên tôi
có toan tính phải bằng một cách nào đó cứu vãn cho đời mình đừng tan nát
nữa. Không có hi vọng gì nhiều rằng Gary sẽ nhìn mọi sự theo cách của tôi
và chỉ có Chúa mới biết tôi còn có cơ hội gặp lại Mark nữa hay không.
Nhưng sâu trong thâm tâm mình, lúc nào tôi cũng cảm thấy chắc chắn
Tuyết đã che giấu cảm xúc thật sự của nó đối với tôi.
Joseph lại thở dài và uống cạn ly:
- Vì lý lịch của tôi, trong một hai năm vừa qua có mấy cơ quan chính phủ
cố thuyết phục tôi đảm trách một nhiệm vụ nào đó ở đây và tôi luôn luôn từ
chối. Nhưng cách đây hai tháng, ngay sau khi nghe nói tới lá thư của Mark
rồi lời đề nghị của JUSPAO thình lình từ trên trời rơi xuống, tôi lập tức
quyết định tạm gác sang một bên những băn khoăn về tính đạo đức của việc
tham chiến.
Naomi chầm chậm đáp lại, như thể vừa nói vừa suy nghĩ. Trong giọng nói
của nàng có âm hưởng ngỡ ngàng:
- Joseph ạ, anh có lý, thật là kỳ lạ rằng dường như chúng ta không chỉ có
chung mối quan hệ vừa yêu vừa ghét với Việt Nam. Nói cách khác, tôi nghĩ