Về lão Ca đã có lần tôi hỏi chú Hoài. Nhắc đến tên lão, chú Hoài có
biết nhưng xem ra chú không ưa lão Ca. Tôi gặng hỏi, chú Hoài chỉ nói:
“Chú ghét thằng cha ấy. Nó cùng nhập ngũ với chú, ở chung một tiểu
đoàn huấn luyện vào Nam. Thằng Ca là lính giữ B40 của trung đội. Trong
một lần nó cùng với anh trung đội phó đưa thương bệnh binh lên phẫu Nhô
ở bờ Bắc sông Bồ. Chỉ vì vô trách nhiệm, sợ bị địch phục kích dọc đường,
nó đã bỏ quên một người trong đơn vị, bị sốt rét, nằm lại dọc đường. Cho
đến nay, cũng không rõ người lính ấy bị hổ vồ hay bị chết đâu đó trong
rừng. Không ai biết. Người lính trẻ ấy là thằng bạn thân của chú, hai đứa
cùng học một trường, cùng đi lính một ngày, vào Nam chiến đấu”.
Nghe chú Hoài nói vậy, tôi không dám hỏi thêm gì nữa về lão Ca.
Lúc cha con tôi trở lại, anh lính lái xe comăngca trẻ tuổi vẫn kiên nhẫn
chờ ở dưới gốc cây đa già. Trời lạnh anh ta chui vào khu miếu nhỏ tránh
rét. Trong lúc đứng dưới gốc đa, cha tôi đã huơ tay chỉ về phía làng, nói với
tôi:
“- Con có nhìn thấy cái vạt nhà trăng trắng kia không? Đất nhà ta đấy,
ông bà đã sinh ra cha ở đấy. Bây giờ hợp tác xã lấy làm trại chăn nuôi, làm
sân phơi lúa”.
Tôi nghe và biết vậy. Không buồn cũng không vui. Chỉ thấy thương
cha.
Gió bấc vẫn thổi ào ạt trên cánh đồng. Chúng tôi chui vào xe, lặng lẽ
rời làng Lôi. Đã quá nửa đêm. Bầy chó ở trong làng nghe tiếng xe ô tô
ngoài đường sủa vu vơ. Có con còn liều mạng đuổi theo xe ô tô một quãng
rồi đứng sững lại giữa đường. Eo óc tiếng gà gáy… Một con trâu nhà ai
sổng chuồng đứng tha thẩn gặm cỏ bên mương nước.
Tảng sáng, cha con tôi đã về tới Hà Nội. Người lái xe lặng lẽ chia tay
cha tôi. Anh chàng xoa nhẹ lên đầu tôi. Chỉ nghe anh nói phải đi gấp vào
một bệnh viện nào đó trong Hà Đông để đón thủ trưởng. Lúc chiếc xe mất
hút trên đường đêm, tôi mới chợt nhận ra vẫn khoác trên mình chiếc áo
bông của người lính. Chiếc áo dài tới gần đầu gối, hơi nặng nhưng ấm.
Người lái xe tên Khang. “- Chú Khang!”. Tôi nhớ vậy.