Trang Tử và Nam Hoa Kinh
Nguyễn Hiến Lê
Tạo Ebook:
Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn truyện: vnthuquan.net
1243[1] Một đại thần nƣớc Nguỵ. Nữ là tên họ.
1244[2] Đó là nghĩa gốc của từ ngữ “tuyệt trần” mà ngày nay dùng với nghĩa là: nhất đời.
1245[3] Nguyên văn là hoành và tung: ngang và dọc, mà các bản tôi có đều dịch là xa và gần.
1246[4]Kim bản, lục thao là, tên hai thiên trong Chu thƣ, theo L.K.h., nói về thống kế và võ bị.
1247[5] Ý nói nhà vua chỉ đƣợc nghe những lời trần hủ trong thi, thƣ, lễ, nhạc. Nguyên văn: chân
nhân chi ngôn. Chữ chân nhân ở đây nghĩa khác hẳn chữ chân nhân (bậc đạt Đạo) trong các bài khác,
trỏ hạng ngƣời thƣờng nhƣ chúng ta. L.K.h. dịch là: paroles vraiment humaines.
1248[6] Nguyên văn: thần giả. H.C.H. dịch là bậc thần minh. Tôi dịch là tâm thần nhà vua cho hợp
với câu của Từ Vô Quỉ ở trên: Uỷ lạo hình thể và tâm thần nhà vua.
1249[7] Những tên Đại Ngỗi, Phƣợng Minh, Xƣơng Ngụ, Trƣơng Nhƣợc, Tập Bằng, Côn Hôn và
Hoạt Kê đều là những tên tƣởng tƣợng, tƣợng trƣng cái gì đó. Núi Cụ Tì và cánh đồng Tƣơng Thành
cũng chƣa chắc là những tên thật.
1250[8] Nguyên văn: thừa nhật chi xa. Quách Tƣợng bảo là: mặt trời mọc thì đi chơi, mặt trời lặn thì
thôi.
1251[9] L.K.h. giảng: đại ý đoạn này là trị thiên hạ thì đừng nghĩ đến cái lợi vật chất nhƣ ngƣời ngao
du ở ngoài cõi lục cực. Lục cực là trên dƣới và bốn phƣơng. Các cuốn khác không giảng.
1252[10] Một ngƣời đầu đời Chu.
1253[11] Có sách chú thích cách đó nhƣ sau: gom thật nhiều than hồng ở dƣới cái đỉnh, và thả một
bình nƣớc sôi (!) xuống giếng.
1254[12] Cung và giốc là hai trong ngũ âm.
1255[13] Tức của Nho, Mặc, Dƣơng, Công Tôn Long và Huệ Thi.
1256[14] Trong phần I, tiểu mục Đời sống (của Trang tử), cụ Nguyễn Hiến Lê có trích dẫn đoạn
tranh biện giữa Trang tử và Huệ tử từ đầu bài 5 đến lời đáp này của Huệ tử; nhƣng lời đáp đó ở trong