chương trình quân sự của Đức đã mang lại một lực lượng hải quân lớn và
ngày càng lớn mạnh, thách thức sự thống trị của Anh trên biển.
Kế hoạch quân sự tạo ra sự cứng nhắc. Kể từ Hội nghị thành Vienna,
chỉ có một cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu là Chiến tranh Crimea. (Cuộc
Chiến tranh Pháp-Phổ chỉ giới hạn ở hai quốc gia tham chiến.) Cuộc chiến
đó được tiến hành trên một vấn đề cụ thể và phục vụ những mục đích hạn
chế. Bước sang thế kỷ 20, dựa trên những điều họ cho là các bài học về cơ
giới hóa và phương pháp điều động quân, các nhà hoạch định quân sự bắt
đầu nhắm tới mục tiêu toàn thắng trong cuộc chiến tranh tổng lực. Một hệ
thống đường sắt cho phép sự chuyển quân nhanh chóng. Với lực lượng dự
bị lớn ở tất cả các bên, tốc độ huy động quân trở thành điều cốt tử. Chiến
lược của Đức – Kế hoạch Schlieffen
nổi tiếng – dựa trên đánh giá rằng
Đức cần đánh bại một trong những nước láng giềng của nó trước khi nước
đó có thể kết hợp với những nước khác tấn công Đức từ phía đông và phía
tây. Từ đó, đánh phủ đầu đã được đưa vào các kế hoạch quân sự của nước
này. Các nước láng giềng của Đức buộc phải thảo luận với nhau; họ phải
tăng tốc sự huy động quân và phối hợp hành động để giảm tác động của
đòn tấn công của Đức. Lịch trình huy động quân chi phối hoạt động ngoại
giao; nếu các nhà lãnh đạo chính trị muốn kiểm soát những cân nhắc quân
sự, thì ngoại giao đáng ra phải chi phối quân sự.
Ngoại giao, vốn vẫn theo những phương pháp truyền thống phần nào
thong dong của mình, đã không nắm bắt được công nghệ mới nổi và hình
thức chiến tranh do tác động của công nghệ này. Các nhà ngoại giao châu
Âu vẫn tiếp tục cho rằng họ đang tham gia vào một nỗ lực chung. Cách tiếp
cận đó của họ được củng cố vì không một cuộc khủng hoảng ngoại giao
nào trước đó của thế kỷ mới từng đưa vấn đề tới điểm đổ vỡ. Trong hai
cuộc khủng hoảng về Morocco và một cuộc khủng hoảng về Bosnia, lịch
trình huy động quân không có tác động nào về mặt quân sự, vì dù việc sắp
đặt quân có căng thẳng đến đâu, các sự kiện cũng không bao giờ leo thang
tới điểm sự đối đầu sẽ xảy ra. Nghịch lý thay, chính thành công trong việc
giải quyết các cuộc khủng hoảng này dẫn đến một hình thức chấp nhận rủi