chúng ta. Trên thực tế, trí nhớ hiệu dụng hình thành nội dung hiểu biết của
chúng ta ở mọi thời điểm. Swelter nói: “Chúng ta nhận thức được những gì
có trong trí nhớ hiệu dụng và không nhận thức được những thứ khác”.
[226]
Nếu trí nhớ hiệu dụng là bộ nhớ đệm thì trí nhớ dài hạn là hệ thống bổ sung
của tâm trí. Nội dung của trí nhớ dài hạn nằm bên ngoài nhận thức của
chúng ta. Để chúng ta có thể nghĩ về những thứ từng học được hoặc trải
qua, bộ não của chúng ta phải chuyển từ trí nhớ dài hạn trở lại trí nhớ hiệu
dụng. Sweller giải thích: “Chúng ta chỉ nhận thức được điều gì đó trong trí
nhớ dài hạn khi nó được mang trở lại trí nhớ hiệu dụng”.
[227]
người ta thường đặt ra giả thiết rằng trí nhớ dài hạn chỉ đơn thuần đóng vai
trò như một nhà kho lớn chứa các sự việc, ấn tượng và sự kiện, rằng trí nhớ
dài hạn “không tham gia nhiều vào các quá trình nhận thức phức tạp như tư
duy hay giải quyết vấn đề”.
[228]
Tuy nhiên các nhà khoa học về bộ não dần
dần nhận ra rằng trí nhớ dài hạn mới thật sự là cái nôi của sự hiểu biết. Nó
không chỉ lưu trữ sự việc mà còn cả các khái niệm phức tạp, hay “lược đồ”.
Bằng cách tổ chức nhiều mẩu thông tin rời rạc thành các mô hình tri thức,
các lược đồ khiến tư duy của chúng ta trở nên sâu sắc và phong phú. “Sức
mạnh trí tuệ của chúng ta chủ yếu xuất phát từ những lược đồ chúng ta có
được trong một khoảng thời gian dài”, Sweller nói. “Chúng ta có thể hiểu
được các khái niệm trong ngành chuyên môn của mình là nhờ các lược đồ
liên quan tới những khái niệm đó”.
[229]
Chiều sâu của trí thông minh xoay quanh khả năng chúng ta chuyển thông
tin từ trí nhớ hiệu dụng sang trí nhớ dài hạn và dệt thành các lược đồ khái
niệm. Tuy nhiên quãng đường từ trí nhớ hiệu dụng tới trí nhớ dài hạn cũng
tạo nên chiếc nút cổ chai chủ yếu trong bộ não của chúng ta. Không giống
trí nhớ dài hạn có dung lượng khổng lồ, trí nhớ ngắn hạn chỉ có thể lưu trữ
một lượng thông tin rất nhỏ. Trong một bài viết nổi tiếng năm 1956 có tên
The Magical Number Seven, Plus orMinus Two (Số Bảy kỳ diệu, cộng hoặc
trừ Hai), nhà tâm lý học George Miller thuộc Đại học Princeton quan sát