8. CÓ NHIỀU KIỂU LỢI NHUẬN
Cho đến lúc này, chúng tôi đã trình bày về doanh thu − dòng trên cùng − và kế
đó là các khoản chi phí. Lấy doanh thu trừ đi chi phí, ta sẽ có lợi nhuận.
Đương nhiên, phép tính này cũng cho ra thu nhập, thu nhập thuần, hay thậm
chí là biên lợi nhuận thuần. Điều đáng ngạc nhiên là một số doanh nghiệp sử dụng
tất cả những thuật ngữ khác nhau này để chỉ lợi nhuận, đôi khi còn sử dụng tất cả
trong cùng một tài liệu. Một báo cáo kết quả kinh doanh có thể có những khoản
mục được gắn nhãn “lợi nhuận gộp”, “thu nhập hoạt động”, “lợi nhuận thuần” và
“thu nhập trên mỗi cổ phần”. Tất cả chúng đều là những dạng khác nhau của lợi
nhuận, thường xuất hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh − và doanh nghiệp có thể
chỉ cần đơn giản gọi đó là “lợi nhuận gộp”, “lợi nhuận hoạt động”, “lợi nhuận
thuần” và “thu nhập trên cổ phần”. Khi doanh nghiệp sử dụng những từ này trong
cùng một báo cáo kết quả kinh doanh thì có vẻ họ đang nói về những khái niệm
khác nhau. Nhưng thực sự là không phải vậy.
Trong cuốn sách này, chúng ta hãy chỉ sử dụng thuật ngữ “lợi nhuận”, và tìm
hiểu các cách gọi khác nhau của nó.
Lợi nhuận
Lợi nhuận (profit) là số tiền còn lại sau khi đã trừ tất cả các chi phí khỏi doanh
thu. Có ba loại lợi nhuận cơ bản: lợi nhuận gộp, lợi nhuận hoạt động và lợi nhuận
thuần. Mỗi loại được xác định bằng cách trừ khỏi doanh thu những hạng mục chi
phí nhất định.
LỢI NHUẬN GỘP: BAO NHIÊU THÌ ĐỦ?
Lợi nhuận gộp − doanh thu trừ đi COGS hoặc COS − là số liệu chính đối với
hầu hết các doanh nghiệp. Nó cho biết khả năng sinh lời cơ bản của sản phẩm hoặc
dịch vụ. Nếu khoản mục này không sinh lời, thì công ty bạn có thể sẽ không trụ
được lâu. Nói cho cùng thì làm sao bạn có thể chi trả cho những chi phí dưới vạch,
bao gồm cả lương bổng của ban quản lý, nếu bạn không tạo được lợi nhuận gộp
vững mạnh?
Lợi nhuận gộp
Lợi nhuận gộp (gross profit) là kết quả sau khi lấy doanh thu trừ đi giá vốn
hàng bán hoặc giá thành dịch vụ. Đó là những gì còn lại sau khi một doanh nghiệp