hầu như luôn tỏ ra đúng. Đúng vậy, nhưng đó chỉ là một ví dụ khác về điều
đã xảy ra trong quá khứ, và điều chúng ta muốn biết là tại sao chúng ta trông
chờ tương lai cũng sẽ diễn ra theo cùng cách đó.
Vậy thì ý tưởng rằng niềm tin của con người có thể được làm sáng tỏ
hoàn toàn bằng lí trí, hoặc rằng cuộc sống con người có thể chỉ căn cứ trên lí
trí, ý tưởng đó sẽ vấp phải những trở ngại rất khó vượt qua. Nhưng còn tồn
tại trường hợp là những khả năng của con người để suy luận, để sở đắc
những niềm tin bằng cách rút ra chúng từ những niềm tin trước đó, những
khả năng đó không chỉ quan trọng đối với chúng ta. Vì nếu không có chúng,
sẽ không có gì còn lại của con người được nhận diện, trừ hình hài của thân
xác chúng ta, mà con tinh tinh cỡ trung còn vượt trội hơn, nói theo cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng.
Bản ngã
Chương 4 đã giới thiệu học thuyết ‘vô ngã’ của Phật giáo, theo đó một
con người không phải là một sự thể đơn thuần, thường hằng một cách độc
lập, mà là một phức hợp, và hơn nữa là một phức hợp dễ dàng tan rã, gồm
năm ‘uẩn’, những uẩn này tới lượt chúng cũng là những sự thể hoặc trạng
thái phức tạp. Nhưng đó không phải là truyền thống duy nhất qua đó chúng
ta thấy được quan điểm rằng bản ngã thực sự là một tổng thể của những vật
tách biệt nối kết với nhau một cách mong manh. Nó dường như xuất hiện ở
phương Tây hiện đại qua cái gọi là ‘Lí thuyết chùm dây thần kinh của trí
óc’, và hầu như luôn được gán cho Hume (Theo ý kiến riêng của tôi, người
đang hướng dẫn các bạn, rất đáng ngờ về việc Hume có thực sự chủ trương
như vậy không, nhưng tôi sẽ tránh bàn trực tiếp vấn đề còn tranh cãi này ở
đây).
Vậy hãy giả định rằng có một sự thể đơn thuần, thường hằng một cách
độc lập - là chính bạn - vẫn tiếp tục là như vậy chừng nào bạn còn hiện hữu.
Nhưng nó ở đâu? Hãy nhìn vào chính đầu óc của bạn để xem bạn có thể
nhận ra nó. Bạn thấy được gì? Trước hết, bạn lưu ý rằng bạn đang trải
nghiệm một mớ hỗn tạp những nhận thức: nhận thức thị giác về những gì