toàn tưởng tượng, cũng có thể rải rác có chút dự đoán may mắn đầy tình cờ
nào đó. Chúng ta hãy lướt qua để xem ba triết gia có khuynh hướng duy lí
rất mạnh, là Plato, Kant, và Hegel, đã đáp trả thách thức này như thế nào.
Theo Plato, điều mà lí trí cho chúng ta biết, thì chẳng hề là trực tiếp về
thế giới của những cảm giác, mà là về những thực thể vĩnh hằng, siêu việt,
gọi là những Ý niệm hoặc những Hình thái: điều Thiện, điều Đúng, điều
Bình đẳng, điều Đẹp. Những sự vật mà chúng ta nhận biết bằng giác quan là
tốt, bình đẳng, vân vân, trong chừng mực mà chúng ‘tham dự’ vào những
Hình thái này hoặc xấp xỉ với những chuẩn mực do những Hình thái đó quy
định. Nhưng bằng cách nào Lí trí có được tri thức về những Hình thái? (Bạn
biết được điều này nếu bạn theo lời khuyên của tôi là đọc tập Phaedo của
Plato, là tập kế tiếp liền tập Crito) Plato đã dùng tới một niềm tin không hề
xa lạ với tư duy Hi Lạp cổ đại. Linh hồn Con người đã tồn tại trước khi nó
nhập vào thể xác hiện tại. Trong cuộc hiện hữu trước đây của nó, nó đã có
trải nghiệm về những Hình thái - Plato ám chỉ không rõ ràng về trải nghiệm
tương tự như tri giác - và giờ đây điều nó đã được học biết được hồi tưởng
lại qua tư duy lí tính.
Kant, người sẵn lòng thừa nhận chủ nghĩa duy nghiệm hơn nhiều so với
Plato hoặc Hegel, đã đáp trả thách thức nói trên theo cách mới mẻ và triệt
để. Lí trí không thể cho chúng ta biết bất kì điều gì về những sự thể không
thể nhận biết - một cách chung chung nó chỉ có thể cho chúng ta biết rằng
trải nghiệm của chúng ta chắc hẳn là giống như thế nào. Và nó có thể làm
thế chỉ vì trải nghiệm của chúng ta được định hình bởi chính tâm trí của
chúng ta. Lí trí, vận hành trên chính nó, thực sự chỉ cho chúng ta biết tâm trí
chúng ta hoạt động như thế nào - đó là lí do tại sao nó có thể hoạt động mà
không cần nhờ vào tri giác của chúng ta về phần còn lại của thế giới.
Đáp trả của Hegel khống giống của Plato, ở chỗ ông bắt đầu với một hệ
thống những ý nghĩ hoặc những cái phổ quát mà ông gọi chung là ‘Ý niệm’.
Đó chính là lực điều động mà nó cơ cấu hóa toàn bộ thực tại, tức là bao gồm
cả tâm trí chúng ta và những phạm trù trong đó chúng ta tư duy, cũng như là
phần còn lại của thực tại là những gì mà chúng ta suy nghĩ về. Đó là lí do tại