lý cổ truyền như thế nào. Sau đây chúng ta xem phần tích cực,
phần xây dựng của ông. Phần xây dựng này đặt trên chí hướng
“đảo lại các giá trị”. Khi muốn tìm xem ông đã dựa trên tôn chỉ
nào để thực hành sự đảo lộn đó, người ta không thể không thấy
rằng Nietzsche đã lấy những giá trị hiện sinh làm nền tảng và
thước đo giá trị các triết thuyết: Những học thuyết nào không giúp
con người phát triển những khả năng vô tận của hiện sinh, đều bị
ông coi là triết suy niệm và vô bổ. Tóm lại, đối với Nietzsche, hiện
sinh là giá trị uyên nguyên và là giá trị duy nhất làm nền tảng cho
các giá trị khác; chẳng hạn tri thức chỉ có giá trị khi nó nhìn nhận
những giá trị hiện sinh và giúp ta phát huy những giá trị hiện sinh
thôi; không hướng về hiện sinh, tri thức chỉ là một giá trị hình
thức, nghĩa là một giá trị chết.
Nhưng hiện sinh của Nietzsche khác hiện sinh của
Kierkegaard nhiều quá: Kierkegaard nhìn nhận sinh hoạt tôn giáo
là hình thức hiện sinh cao quý nhất và trung thực nhất, trái lại
Nietzsche gớm ghét tất cả mọi hình thức tôn giáo và coi tôn giáo
là hình thức hiện sinh nô lệ. Do đấy, Nietzsche chủ trương:
“Thượng đế đã chết rồi; phải giết Thượng đế thì con người hùng,
tức con người siêu nhân mới có cơ xuất hiện”. Hiện sinh của
Nietzsche là thứ hiện sinh gắn liền với trái đất này; hiện sinh đó
nhất định chỉ nhận “những thức ăn của trái đất” thôi. Cũng vì thế,
chúng tôi coi Nietzsche như ông tổ của tất cả những gì là “tả” và
vô thần trong phong trào hiện sinh. Hiện sinh của Nietzsche cũng
như hiện sinh của Sartre và của A.Gide chỉ là hiện sinh của đời
này mà thôi, không có hướng lên Thượng đế và cũng không
hướng về một đời sau nào hết.
Nietzsche ý thức một cách bi đát rằng: Đời sống là giá trị duy
nhất; tất cả những gì khác chỉ có giá trị tùy theo chúng có thông
phần vào giá trị căn bản đó không. Tuy nhiên, tự nó đời sống