tâm lý học theo quan điểm ngôi thứ nhất (psychologie en
première personne); tâm lý học theo kiểu Aristote và Hume được
mệnh danh là tâm lý học theo quan điểm ngôi thứ ba. Tâm lý học
theo quan điểm ngôi thứ nhất chủ trương rằng: Tôi nghĩ thế nào
thì thế giới xuất hiện đúng như thế, nên nhà tâm lý học chỉ cần
nghiên cứu những tâm trạng của mình là có thể biết thế giới.
Ngược lại, đối với tâm lý học theo quan điểm ngôi thứ ba, thì thế
giới là tất cả, chủ thể chỉ là hình ảnh in lại nguyên bản của thế
giới: Vì thế giới bất biến, cho nên một khi người quân tử đã đạt
được cái nhìn đích thực về thế giới rồi, tất nhiên ông không cần
học thêm nữa và chỉ dùng thời gian còn lại của đời sống để giảng
truyền cái học thuyết bất di bất dịch của ông thôi.
Chúng ta vừa đề cập đến hai thái độ cổ điển, duy trí và duy
nghiệm, tức quan điểm ngôi thứ nhất và quan điểm ngôi thứ ba.
Hai thái độ này đều nhất thiết dẫn chúng ta tới những duy, duy
chủ thể (tức duy trí) và duy khách thể (tức duy nghiệm). Hiện
tượng học của Husserl đã tránh được cả hai cái duy đó: Theo
Husserl, chủ thể không có quyền tự đặt mình làm tuyệt đối; đàng
khác, kinh nghiệm cho ta thấy rằng đối tượng không phải là thột
tuyệt đối, bởi vì cũng một sự vật mà mỗi người chúng ta thấy nó
một cách, chẳng hạn cái búi tóc củ hành được các cụ ông cha
chúng ta coi là trang sức đáng kính của người lịch thiệp và tao
nhã, thì bọn thanh niên ngày nay coi đó là cách trang sức kỳ khôi,
nếu không đáng nực cười thì ít ra cũng không mê. Nói thế nghĩa
là chủ thể không có quyền gán cho sự vật những ý nghĩa tùy ý
(duy trí); đồng thời sự vật không có một ý nghĩa bất biến, nhất
định, nhưng ý nghĩa đó còn tùy ở sự xác nhận của chủ thể nữa.
Nói một cách khác nữa: Theo hiện tượng học, ý nghĩa chỉ hiện ra
khi chủ thể thực sự gặp đối tượng và cũng chính là lúc mà đối
tượng được một ý thức truy nhận, cho nên ý nghĩa là thành quả