nhất là: Ý thức luôn luôn hướng về một đối tượng nào đó, đến nỗi
không có đối trọng, chúng ta không thể có ý thức được. Chủ thể
cần có thế giới; nói cách khác, ý thức cần thiết phải có đối tượng.
Không có không được. Như vậy sự phi lý và những ảo tưởng của
duy trí thực là rõ rệt. - Những ý hướng tính của ý thức còn có một
ý nghĩa rất quan trọng nữa: Vì bản tính của ý thức là hướng ra,
cho nên trong ý thức không có chi hết. Thành thử nói “nhìn vào
trong tâm linh” như kiểu tâm lý học cổ truyền chỉ là một cách nói
bình dân và theo quan điểm duy nhiên: Nói thế tỏ ra các tâm lý
gia xưa kia coi ý thức như một cái kho chứa những hình ảnh và
hoài niệm, nên ta muốn thấy kỷ niệm xưa thì cứ việc “nhìn vào
trong” tâm linh. Husserl đã chứng minh tỏ tường rằng: Khi tôi
nhắm mắt để dễ hình dung ra người em tôi còn lại trên đất Bắc,
tôi chỉ có ý tránh sức ám ảnh của những sự vật đang thực sự
hiện diện quanh tôi và làm khó dễ cho sự tôi nhìn người em vắng
mặt; tuy nhiên tôi không tìm người em ở trong tâm linh tôi, tôi
nhắm hai mắt thịt để “mắt ý thức tôi” dễ dàng hướng về người em
vắng mặt. Thái độ nhìn bao giờ cũng thế: Nhìn là hướng tới một
đối tượng; và như vậy, tôi không nhìn hình ảnh nào của em tôi ở
trong tâm linh tôi hết. Thực sự tôi hướng về người em bằng
xương bằng thịt đang sống ở một chân trời xa. Theo Husserl, khi
tôi nhìn cuốn sách tôi đang cầm ở tay, thì sự hướng về đó của tôi
được “đổ đầy” bằng sự hiện diện của cuốn sách; còn khi tôi
hướng về người em xa vắng, sự hướng về của tôi không được
“đổ đầy” bằng sự hiện diện thực sự của đối tượng: Cả hai trường
hợp cùng được gọi là “nhìn”, nhưng khác một điều căn bản là khi
tri giác (perception), tôi nhìn một đối tượng thực sự hiện diện
(présenté), còn khi hoài niệm hay hồi tưởng thì tôi chỉ nhìn một
đối tượng do tôi hiện diện hóa (présentifié). Tóm lại, bản tính của
ý thức là hướng ra, nên hiện tượng học không nhận có những sự