xương và bằng thịt, năm nay nó mười sáu tuổi: Tôi nhìn nó là
cháu gọi tôi bằng cậu ruột, ba nó nhìn nó như trưởng nam nối dõi
tông đường, má nó nhìn nó là đứa con trai mà bà ta hiến cho
chồng và họ nội, rồi các em trai và em gái của thằng Việt đều
nhìn nó tự những quan điểm khác nhau. Thành thử cũng một đối
tượng (thằng Việt) mà mỗi người trong gia đình đối diện với nó tự
một quan điểm khác nhau; và đó là những chỗ đứng nhất định để
chúng tôi nhìn nó. Cho nên tôi không thể nhìn Việt bằng đôi mắt
và ý hướng của ba nó. Nếu tôi ghi thêm vào đó những cái nhìn
của ông thầy dạy nó ở trường, của anh em bạn chơi hoặc bạn
học của nó, rồi những cái nhìn của kẻ qua đường, và sau hết là
cái nhìn của chánh phủ coi nó là một công dân chưa đến tuổi đi
quân dịch v.v... thì tôi càng thấy rằng riêng một em thiếu niên đó
cũng đã trở thành đối tượng cho bao nhiêu là cái nhìn khác nhau.
Những trình bày trên đây chỉ có mục đích phá đổ quan niệm
của triết học cổ truyền về đối tượng: Các triết gia cổ truyền
thường mắc vào tội muốn có cái nhìn của Thượng đế; các vị đó
chủ trương có thể biết thấu bản tính của sự vật nghĩa là nhìn thấu
vào tới bản thể của đối tượng; đó là cái nhìn có thể cho ta biết
đến đáy lòng sự vật. Thực ra, các triết học cổ điển thường quan
niệm đối tượng là đối tượng cho cái nhìn của Thượng đế, nên đối
tượng bất biến. Husserl cho đó là một chủ trương vừa điên rồ
vừa không xác thực: Chúng ta, những con người có quan điểm
và bị hạn chế vào những chỗ đứng nhất định, chúng ta không thể
đồng thời đứng nhìn đối tượng do hai ba quan điểm khác nhau;
như thế nghĩa là chúng ta không thể nhìn sự vật bằng cái nhìn
tuyệt đối của Thượng đế, tức cái nhìn thấu suốt trong ngoài sự
vật. Theo Husserl, cái nhìn của chúng ta chỉ có thể là những cái
nhìn phiến diện thôi; và ông gọi mỗi cái nhìn như thế của chúng
ta là một cái nhìn trắc diện (abschatt-ung profil). Bản tính của cái