một bên chúng ta có ý thức sinh hoạt thuần túy, cũng gọi là bản
ngã thuần túy (cao phủ và đối diện với ý thức là vũ trụ hiện tượng
(monde phénoménologique). Nói cách khác, giảm trừ hiện tượng
học của Husserl có tham vọng cho ta thấy thế giới đã xuất hiện
với ý thức ta thế nào trong mỗi cái nhìn của chúng ta: Trong ý
này, Husserl gọi tri giác (tức sự gặp gỡ đầu tiên giữa ý thức ta và
thế giới) là ý thức kiến tạo (conscience constituante). Kiến tạo
nên thế giới hiện tượng, tức cái thế giới duy nhất mà ta đã thấy
và đã sống (erlebnis). Nói đến ý thức kiến tạo là nói đến một đề
tài chủ chốt của Husserl và của các nhà hiện tượng học. Nhưng
nói “kiến tạo” không có nghĩa là tôi nghĩ thế nào thì thế giới xuất
hiện như thế. Đó là lập trường của Kant. Husserl nói “kiến tạo”
với ý nghĩa là: Sự vật chỉ là thế này, thế nọ, vì nó đã được thực
sự truy nhận như thế bởi ý thức. Trước khi có sự truy nhận, thì tôi
chưa thể biết sự vật sẽ thế nào, mặc dầu sự vật vẫn có đấy từ khi
tôi nhận nó: Husserl gọi thế giới chưa được truy nhận đó là tiền
vũ (pré-monde). Tiền vũ và ý thức đi tới chỗ gặp nhau, và hình
ảnh tôi có về vũ trụ (tức thế giới hiện tượng) là chính kết quả của
cuộc đối diện và đối thoại đó: Tôi có thể thấy mặt hay thấy lưng
của sự vật và tùy theo ý hướng lúc đó của tôi, tri giác của tôi đã
có thể chú ý đến phần nọ và bỏ phần kia của sự vật. Kết cục, sự
vật đối với ý thức chỉ là hiện tượng, nghĩa là nó chỉ là cái mà ý
thức đã thực sự đón nhận và nó chỉ là thế mà thôi. Đó chính là ý
nghĩa của giảm trừ hiện tượng học, tức coi sự vật (hay thế giới)
đúng như nó đã được ý thức truy nhận và chứng nghiệm.
Kết quả: Giảm trừ hiện tượng học đưa ta vào trung tâm, nơi
mà hiện tượng là mối liên lạc mật thiết giữa ý thức và đối lượng
(vì ý thức nhất thiết hướng về đối tượng, và đối tượng chỉ có
nghĩa vì đối diện với một ý thức). Giảm trừ yếu tính cho ta thấy
tính chất thuần túy, tức yếu tính của sự vật đối tượng; còn giảm