trừ hiện tượng học cho ta thấy tính chất hiện tượng
(phénoménalité) của đối tượng.
Câu diễn tả giảm trừ yếu tính là: “Tôi ý thức, vậy tôi ý thức một
cái gì” và câu để diễn tả giảm trừ hiện tượng học là: “Tôi ý thức
những cái tôi đã ý thức và đó là những điều tôi đã ý thức” (Ego -
cogito - cogitata qua cogitata).
“Công thức có thể diễn đạt hết ý nghĩa của cái mà giảm trừ
hiện tượng học mang lại, sẽ không phải là thứ Cogito suông,
trong đó vẫn sống cái niềm tin và hiện hữu của bản thể tinh thần
như chúng ta thấy rõ ràng nơi Descartes. Công thức mới sẽ là:
Tôi ý thức những cái mà tôi ý thức xét như đó là những cái mà tôi
đã ý thức”
Tôi dịch Cogito của Husserl là “ý thức” không dịch là suy
tưởng, vì Cogito của Husserl luôn luôn gắn liền với một cái gì tức
cái mà tôi ý thức (cogitatum): Vì thế ta thấy Husserl gắn liền ego
với cogito và với cogitata bằng những gạch ngang. Làm như thế,
Husserl muốn ta nhớ không thể có ý thức khi không có đối tượng:
Chúng không thể lìa nhau.
Trở lại công thức trên đây của Husserl, ta thấy giảm trừ hiện
tượng học đã làm biến mất thiên nhiên và biến mất cả những cái
tôi ý thức (cogitata), để đặt ta trước một hiển nhiên, tức thực tại
duy nhất của ý thức siêu nghiệm (cũng được Husserl gọi là ý thức
thuần túy): Ý thức và đối tượng gắn chặt lấy nhau thành một thực
tại duy nhất. Thực tại đó đứng về phía chủ thể sẽ gọi là noèse
(hình thái ý thức), và đứng về phía đối tượng thì sẽ gọi là noème
(hình thái cái mà tôi ý thức). Không thể có noèse khi không có
noème, cũng như không thể có noème khi không có noèse gắn
với nó: Cả hai tạo thành thực tại mà Husserl gọi là Corrélat
(tương thể).