TRIẾT HỌC HIỆN SINH - Trang 149

ra những yếu tính cụ thể chỉ là những sự vật xét như chúng đã là
đối tượng cho ý thức.

Với những yếu tính cụ thể, chúng ta đề cập đến tôn chỉ của

Husserl: Hiện tượng học phải đạt được chính những sự vật cụ
thể. “Zu den Sachen selbst: Trở lại chính những sự vật, đó là tôn
chỉ được Husserl và các nhà hiện tượng học luôn luôn nhắc tới.
Nói “trở lại”, vì những yếu tính cụ thể đó đã được ý thức ta nhắm
và sống khi ta gặp sự vật lần đầu tiên, trong những tri giác. Bây
giờ, dùng hồi tưởng (ré-flexion) chúng ta trở về tìm kiếm chúng,
và ta thấy chúng vướng (impliquées) trong những ý hướng của ý
thức tri giác (consciene percevante) tức ý thức hòa mình để trở
nên một với sự vật mà nó ý thức. Nói “hồi tưởng”, nhưng nên chú
ý đến sự khác biệt sâu xa giữa hồi tưởng theo nghĩa cổ điển và
hồi tưởng theo nghĩa hiện tượng học: Hồi tưởng theo nghĩa thông
thường là đứng trên quan điểm duy nhiên để nhìn lại sự vật mà
người ta tưởng rằng lúc nào cũng thế; còn hồi tưởng theo nghĩa
hiện tượng học là tìm lại cái hình ảnh mà ý thức thực sự đã nhận
được khi tiếp xúc với sự vật vì sự vật như nước trong bình nhất
thiết có hình thể giống hệt như hình thể của chiếc bình. Cho nên
các nhà hiện tượng học thường nói tắt rằng: “Thế giới là cái mà
ta tri giác”. Vậy nên dùng hồi tưởng tìm lại được cái thế giới mà ta
đã tri giác, nhất định chúng ta đạt được chính sự vật và như vậy
là chúng ta thể hiện được mục đích “Zu den Sachen selbst” (đạt
tới chính sự vật).

Sau khi đã hiểu thế nào là những yếu tính cụ thể, chúng ta dễ

hiểu tại sao Husserl đã gọi hiện tượng học của ông là khoa dạy
“nhìn thấy những yếu tính” (Wesenschau).

Để tóm tắt những điều đã được trình bày trên đây về giảm trừ

hiện tượng học, chúng tôi nghĩ không gì bằng thong thả đọc lại
trang sách giá trị sau đây của G.Berger: “Quan niệm thế giới như

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.