Nếu không thận trọng theo dõi những lời lẽ trên đây về học
thuyết Husserl, có người sẽ cho Husserl duy tâm vì luôn luôn nói
đến Cogito, và còn nói đến những cái ta ý thức xét như chúng chỉ
là những cái mà ta đã ý thức. Nhưng khi nhớ lại rằng Husserl chỉ
đặt thiên nhiên vào trong ngoặc đơn và đàng khác Husserl là
người đầu tiên chủ trương rằng con người là hữu thể tại thế, tất
chúng ta không thể nghĩ Husserl duy tâm. Hơn nữa, Husserl còn
quả quyết: Không có ý thức khi không có đối tượng, mà đối tượng
thì nhất thiết phải là những cái gì cụ thể, những khía cạnh, những
trắc diện (abschattungen) mà tôi đã chứng nghiệm về sự vật nếu
nhớ những điều đó, chúng ta mới hiểu tại sao Husserl dám tuyên
bố chỉ có hiện tượng học mới vén màn cho ta thấy thế giới đích
xác, tức thế giới mà chúng ta thực sự đã sống. Merleau Ponty đã
viết một điều rất thực: “Không gì khó bằng biết cho đúng cái mà
chúng ta thực sự đã nhìn thấy”. Sở dĩ Husserl quyết dùng hiện
tượng học để vén màn cho ta thấy cái thế giới mà ta đã tri giác
(chớ không phải cái thế giới mơ hồ của sách vở, và nhất là của
những triết học duy trí hay duy nghiệm), vì chủ đích của giảm trừ
hiện trong học là đạt tới cái thế giới đã thực sự được ý thức ta
nhắm khi ta sinh hoạt; tuy rằng thế giới đó đã bị ta đặt vào trong
ngoặc đơn, nhưng ta vẫn không hề hoài nghi về sự hiện hữu của
nó; trái lại ta quyết rằng thế giới vẫn có đầy. Chỉ cần nói thêm
rằng: Thế giới mà ta ý thức theo quan điểm hiện tượng học đây
không phải là thế giới nói chung, tức vũ trụ tuyệt đối, nhưng là thế
giới mà ta đã thực sự hướng tới, thế giới mà ta đã thực sự nhắm;
thành thử, mặc dầu với ý thức thuần túy của thái độ giảm trừ hiện
tượng học, ta chỉ đạt tới những yếu tính (essences) tức nhưng
hiện tượng thuần túy mà thôi, nhưng rất nên nhớ rằng đây là
những yếu tính cụ thể (essences concrètes). Những yếu tính này
không giống những yếu tính phổ quát của triết học cổ điển; thực