nó, tôi nhất định “nhắm” một trong những phương diện trên đây,
nhưng không thể nhắm ra ngoài những trắc diện đó. Nói thế có
nghĩa là mô tả hiện tượng học nhắm mô tả những hiện tượng “đã
sống” (vécus) và “thuần túy” (purs). Xem như thế mô tả hiên
tượng học cấm ta không được “nghĩ ra” cái ta phải tả, vì như thế
là duy tâm và viễn vông. Ta không được nghĩ ra, nhưng phải “trở
về chính những sự vật” (zu den Sachen selbst) mà ta đã thực sự
thấy, cảm và sống. Merleau Ponty viết: “Ta phải mô tả, không
được giải nghĩa và không được phân tích. Tôn chỉ này Husserl
dạy ta “trở về chính những sự vật”... Tất cả những gì tôi biết về
thế giới, dầu là nhờ khoa học, tôi đều biết do một cái nhìn của tôi,
tức một kinh nghiệm của tôi về thế giới. Không có kinh nghiệm
này, những ký hiệu của khoa học sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.
Thế giới của khoa học thực sự đã được xây trên thế giới mà ta đã
nhìn thấy... thành thử khoa học chỉ là tiếng nói thứ hai về thế giới
thôi”.
Như vậy nói mô tả hiện tượng học là nói mô tả những gì ta
triển khai theo phương pháp hiện tượng học. Và nói triển khai,
như ta vừa thấy trên đây, là nói tháo gỡ cái noème ra khỏi cái
noèse. Tại sao thế? Thưa vì sau khi đã hoàn thành sự giảm trừ
hiện tượng học, chúng ta không còn đối diện với vũ trụ thiên
nhiên nữa, nhưng đối diện với những hiện tượng (theo nghĩa
Husserl) tức những noème. Công việc triển khai hoàn toàn diễn
ra trong ý thức, bằng những hồi tưởng theo hiện trong học; nếu ta
ra khỏi hồi tưởng, hoặc không đứng vào quan điểm hiện tượng
học, chúng ta sẽ làm vỡ những ngoặc đơn, và như vậy là chúng
ta lại thấy vũ trụ thiên nhiên ùa vào. Xem thế đủ biết mô tả hiện
tượng học là một việc khó, cần phải tập lâu. Viết sách đó cho các
bậc đại học, Berger còn nói trắng ra rằng giảm trừ hiện tượng học
là một điều khó, và các nhà hiện tượng học khác cũng không