ngớt nhắc cho ta hay: Nếu ta thấy khó đạt được quan điểm hiện
tượng học, không nên ngã lòng và cần phải nỗ lực thêm.
Trong thực tế, mô tả thế nào và triển khai thế nào? Cần phải
nắm được ý hướng của ta trong những biến cố hoặc những tình
trạng đã sống: “Bản tính của ý hướng là hướng tới... Muốn nắm
được ý hướng, phải tự đặt mình vào chỗ khởi điểm của các cử
chỉ của nó, rồi vén màn để nhìn thấy cơ cấu riêng biệt của mỗi ý
hướng đã thúc đẩy và đã nằm trong mỗi cử chỉ của ta”. Thí dụ
cũng là buồn. Các sách tâm lý học cổ truyền chỉ coi buồn là một
tình cảm, thế rồi thuyết thì giải nghĩa tình cảm bằng những yếu tố
sinh lý, thuyết khác lại giải nghĩa bằng những yếu tố tâm linh.
Thuyết duy trí bảo: “Tôi giận vì tôi nghĩ đến việc phi lý người ta đã
làm cho tôi”. Thuyết duy nghiệm, trái lại, nghĩ rằng: “Tôi giận vì tôi
đã cắn răng và nắm tay”. Cả hai thuyết này cùng sai, vì không nói
lên yếu tính của sự giận. Hiện tượng học, khoa học của những
yếu tính cụ thể, sẽ giúp ta tìm ra yếu tính của sự giận. Yếu tính
đó, cũng như yếu tính của tất cả các tình cảm, không chỉ nằm
trong tư tưởng và cũng không chỉ nằm nơi những biến chuyển
của thần kinh. Con người không phải chỉ là hồn, và cũng không
chỉ là xác. Con người là cả hai, tâm và vật, hồn và xác; cho nên
giận là một cử chỉ, và mỗi cử chỉ đều do một ý hướng thúc đẩy
xui nên. Như vậy không có sự giận phổ quát, nhưng chỉ có những
hình thức giận mà tôi đã sống trong xác thịt và ý thức tôi: Tức
giận, giận dữ, giận dỗi, giận hờn v.v… Mỗi cái giận này là một
hình thái khác nhau của “ý hướng giận”. Thí dụ buồn giận là giận
âm ỷ, không nói ra, và có nói cũng chỉ là nói nhỏ với bạn thân,
không hy vọng “bồi thường” về chỗ thiệt hại người ta làm cho ta;
còn giận dữ cũng thế, nhưng ý hướng là “phản đối ầm ỹ” để
người ta đừng có làm như thế từ nay về sau; giận dỗi và giận hờn
là giận với ý hướng vừa phản đối vừa van nài tha nhân bồi