thần con người xét như tinh thần đó mang trong mình nó tất cả
lịch sử của nhân loại và những ưu tư của thời đại. Chính tính chất
tinh thần làm cho con người là những nhân vị, vì tinh thần là sinh
hoạt trong lịch sử và có khả năng để ý thức về lịch sử tính của
mình. Nhờ lịch sử tính, tôi không phải chỉ là những cảm giác của
mỗi lúc hoặc những lo nghĩ của mỗi tuổi đời tôi: Lịch sử tính là
căn bản nhờ đó mà mỗi người cảm thấy mình là chủ thể duy nhất
của bao cảnh huống và biến cố tâm linh. Tóm lại, tinh thần là
đồng nhất tính (identité) nhân bản của con người sinh hoạt. Chính
tính chất tinh thần làm cho con người vượt quá bình diện khả
nghiệm (empirique) để vươn tới bình diện hiện sinh tự do.
Như vậy phương pháp của khoa học thực nghiệm không thể
mang áp dụng vào các khoa học về tinh thần được. Tinh thần là
chỗ thất bại của khoa học thực nghiệm. Tinh thần cũng là chỗ thất
bại của hai nền triết học cổ điển duy nghiệm và duy trí, vì “hai triết
thuyết này cũng chủ trương một nguyên tắc là: Tri thức con người
có thể thấu triệt được hữu thể, cho nên triết lý chỉ là sự suy niệm
cái tri thức đó mà thôi”. Duy nghiệm giảm trừ hữu thể thành một
vật thể cứng đờ, và còn coi chủ thể như một vật thể nữa: Anstote
đã gọi tâm trí ta là “cái kho chứa những hình ảnh của sự vật” và
Hume thì gọi “tâm trí ta là một tấm gương phản chiếu đúng hình
ảnh sự vật” như vậy họ coi tâm trí ta thụ động hoàn toàn như một
sự vật, như một tấm gương và như một bảng vẽ. Trái lại duy trí
chủ trương rằng sự vật hoàn toàn giống hình ảnh mà tâm trí ta có
sẵn về sự vật; thành thử không cần gặp sự vật nhưng chỉ cần
nhìn vào những ý tưởng tôi có sẵn trong tâm linh, tôi cũng thừa
biết sự vật. Cái tật chung của hai thuyết này, duy trí và duy
nghiệm, là coi tâm và vật cũng là một, duy trí thì bảo tâm là tất cả,
cho nên vật cũng chỉ là tâm; duy nghiệm thì bảo vật là tất cả, cho
nên tâm cũng chỉ là vật. Như vậy duy trí và duy nghiệm đều