khác họ tỏ ra vững tâm một cách đáng sợ: Vì họ chỉ biết khư khư
nắm lấy niềm tin tưởng của họ, cho nên tôi nghĩ rằng: Những
người nắm chặt lấy chân lý một cách chung thẩm như thế, không
đối thoại với ai được”. Xem như thế, hình thức tôn giáo của các
hội giáo dễ sinh ra đức tin công thức là thứ đức tin ngộ đạo, cho
mình là chân lý duy nhất, “chỉ mình có chân lý, còn bao nhiêu
người khác đều sống trong tối tăm lầm lạc”. Sự tự phụ này
thường ngấm ngầm xui nên những cảnh vô nhân đạo: Cấm đoán
và giết hại những tín đồ tôn giáo khác; ý chí hùng cường muốn
bắt ép người ta gia nhập tôn giáo của mình. Jaspers vạch rõ
những trang sử mà sự cuồng đạo đã làm đổ máu bao nhiêu dân
lành vô tội, những cuộc đổ máu gây nên do những vị giáo chủ
ngộ đạo đã xúi dân lành của hai hội giáo giết lẫn nhau. Ngày nay,
tuy sự cuồng đạo không thể gây chết chóc nữa, nhưng nó vẫn là
bức tường ngăn cách nhân loại thành từng nhóm bít kín và đố kỵ
nhau. Thành thử sự nguy hiểm do tôn giáo sùng bái là một nguy
hiểm thực sự, nguy hiểm sâu xa. Sâu xa vì ít khi người ta nhận
thấy đó là một sự ác: Người ta thường cho những hành động
cuồng đạo là những hành động tốt lành, tốt lành vì người ta chỉ
muốn đem những kẻ tối tăm về con đường ánh sáng của chân lý.
Mà chân lý thì chỉ có thể là chân lý của hội giáo tôi. Để kết luận,
Jaspers viết: Ước mong phụng sự chân lý một cách hư hỏng như
vậy, con người tự bào chữa cho những bản năng thấp hèn trong
mình và là những bản năng hung tợn nhất: Đó là ý chí hùng
cường, tính tàn ác, thích phá phách. Người ta tưởng mình tranh
đấu cho chân lý; thực ra người ta đã thả cương cho những bản
năng thầm kín”.
Xét về phương diện thứ nhất này của tôn giáo người ta thấy
tôn giáo là một chướng ngại cho tình huynh đệ và cho mối thông
giao. Người tín đồ cuồng đạo tự vít mình trong một thái độ tự kiêu