và duy trì những sợ sệt ảo tưởng, làm cho tâm hồn con người
khiếp nhược”.
Tóm lại, sự khiếp nhược và sự lười biếng đã sinh ra mê tín.
Cho nên, “soi vào hiện sinh”, Jaspers thấy rằng ít ra là ở chỗ này,
tôn giáo không đưa tới siêu việt, mà chỉ đưa tới những thần
tượng, tức những siêu việt giả hiệu thôi.
Nói thế có nghĩa là Jaspers tuyệt đối chối bỏ tôn giáo không?
Qua mấy dòng trên đây, chúng ta thấy Jaspers đã can đảm nhìn
thẳng vào sinh hoạt tôn giáo: Nhờ phương pháp “soi vào”, ông
thấy rằng tôn giáo chứa đựng khá nhiều nguy hiểm cho sự vươn
lên tới siêu việt. Tuy nhiên, ông cũng nhận định thẳng thắn về vai
trò của tôn giáo, và ông không khước từ tôn giáo như ông đã
khước từ vô thần. Jaspers nghĩ rằng tôn giáo là một hình thức
cần thiết cho hiện sinh, nhưng rồi hiện sinh phải vượt qua giai
đoạn tôn giáo đó để tiến tới cái mà ông gọi là “niềm tin triết học”
(foi philosophique). Trước hết ông cho tôn giáo là cần thiết. “Triết
học không thể cung cấp cho con người những cái mà tôn giáo đã
ban cho con người, cho nên tôn giáo là một lãnh vực riêng. Triết
học không tự đặt mình như chân lý toàn diện và duy nhất. Đàng
khác, trong một thế giới vô tôn giáo, chân lý triết học không thể
tồn tại lâu được: Chính nhờ đức tin tôn giáo mà thực chất của
triết học được bảo tồn và sống động”. Như vậy, tôn giáo rất cần
thiết, vì không có tôn giáo thì chân lý, dầu là chân lý triết học,
không thể tồn tại được: Những nước vô tôn giáo cho ta thấy cảnh
tượng chiều tàn của chân lý, vì ngoài chân lý của bạo lực và của
chính quyền ra không còn một chân lý và công bình nào hết. Đó
là cảnh trong những nước chuyên chế. Rồi tôn giáo còn cần thiết
để duy trì truyền thống nhân đạo của con người: Chính trong tôn
giáo, người ta gặp được những di sản cao quý nhất của tiền
nhân. Tôn giáo là kết tinh của những nỗ lực cao cả nhất và