Đối với Marcel, thái độ an nghỉ đó là thái độ phản triết lý, vì bản
tính của triết lý là truy vấn, là tra hỏi về chính mình mình; và mỗi
câu trả lời của ta mới chỉ là một ánh sáng nhợt nhạt chiếu vào cõi
thăm thẳm của cuộc đời. Tóm lại, theo Marcel, không thể có
những câu trả lời thỏa mãn cho câu hỏi của ta về cuộc nhân sinh
ta: Thành thử tư tưởng triết học phải là một tư tưởng truy vấn
(pensée quen ogative), không ngừng lại nơi những câu trả lời,
nhưng dùng những câu trả lời đó làm đà tiến sâu thêm vào huyền
nhiệm của hiện sinh mà thôi. Trong viễn tượng đó, chúng ta có
thể gọi triết học của Marcel là triết học của những bước nhích lại
gần (approches concrètes), lại gần thêm mỗi lúc một ít, nhưng
không bao giờ đạt được toàn vẹn. Đó cũng chính là ý nghĩa chữ
huyền nhiệm mà chúng ta sẽ luôn luôn gặp khi đọc Marcel: Bản
tính của huyền nhiệm là vừa ẩn vừa hiện, man mác quanh ta, bao
trùm lấy ta, vậy mà ta không xác định được nó là chi, ta không
xác định được, không phải vì ta không thấy, nhưng chỉ vì huyền
nhiệm vừa lồ lộ trước mặt ta và bao trùm lấy ta, vừa vượt quá
mọi ước lượng và mọi quan niệm của ta.
Về hiện sinh, tư tưởng của Marcel xoay quanh hai chữ chiếm
hữu và hiện hữu (être et avoir). Chiếm hữu (avoir) là quy chế của
sự vật. Hiện hữu (être) là quy chế của chủ thể vươn tới hiện sinh.
Những suy nghĩ rất tỉ mỉ và sâu xa của Marcel về hai thái độ hiện
hữu và chiếm hữu dẫn thẳng ông tới sự khám phá ra thực tại của
hiện sinh. Sau này, Marcel tỏ ra chịu ảnh hưởng sâu đậm của
hiện tượng học Husserl, nhưng trước sau Marcel vẫn giữ một nẻo
đi khá đặc biệt: Cũng là hiện tượng học, nhưng hiện tượng học
của Marcel không theo những con đường “thu giảm” (réduction)
như Husserl; nhìn kỹ những mô tả hiện tượng học của Marcel,
chúng ta thấy ông theo con đường “những gần gũi cụ thể”
(approches concrètes) là con đường riêng của ông. Con đường