Khi tự say sưa về dĩ vãng của ta, ta giống như người ngồi
nghe đĩa hát: Những mảnh đời kia không còn là đời sống thực
nữa, nhưng là những mảnh đời đã bị khách thể hóa, đã trở thành
những sự vật ở ngoài ta: Đó là những sở hữu. Chính thế, dĩ vãng
của ta sẽ làm hại ta, biến ta thành cái đĩa hát, nếu ta vô tình coi dĩ
vãng của ta như kiểu một sở hữu. Chú giải tư tưởng của Marcel
về tính cách sở hữu của dĩ vãng, Troisfontaines viết: “Nói về dĩ
vãng của tôi, tức là đứng vào lập trường giữa sống cái dĩ vãng đó
và nhìn cái dĩ vãng đó... Tôi có vẻ như đang kể chuyện đời tôi cho
người khác nghe: Nhưng bản tính của những câu chuyện là, nếu
kể đi kể lại, chúng sẽ cứng đọng chung quanh mấy điểm thôi. Rồi,
có ngày, tôi sẽ có cảm tưởng như có ai kể truyện đó cho tôi nghe
chớ không phải tôi nhớ lại dĩ vãng của tôi nữa: Tôi chỉ có việc
quay đĩa hát thôi. Cho nên dĩ vãng của tôi càng ngày càng mất
tính chất nhân vị, nếu tôi hay nhắc lại dĩ vãng đó. Tôi thấy tôi là
một kẻ xa lạ với tôi”.
Cũng là dĩ vãng của ta, nhưng ta có thể có hai thái độ. Chiếm
hữu hay hiện hữu. Nếu ta chiếm hữu ta sẽ biến dĩ vãng thành
một sự vật cứng đọng, một sở hữu, và khi đó dĩ vãng của ta sẽ lôi
ta xuống hàng sự vật bất động: Dĩ vãng là cái đã chết; người
sống nương mình vào dĩ vãng, là người chôn mình trong cõi chết.
Họ chết, vì họ không sống trong hiện tại và không còn có dự tính
để vươn mình về tương lai nữa. Trái lại, nếu ta hiện hữu dĩ vãng
của ta, nghĩa là nếu ta không cho dĩ vãng đó là thành công của
đời ta, khi đó dĩ vãng không là một sở hữu ở ngoài ta và thuộc về
ta, nhưng là ta ngày nay. Nói dĩ vãng là ngày nay, vì dĩ vãng
không có mục tiêu nào khác ngoài sự dẫn ta đến chỗ thực hiện
công việc của ngày nay; dĩ vãng là một bước ta đã bước qua để
tiến đến ngày nay. Ta không tiếc rẻ, và cũng không trìu mến dĩ
vãng như người khờ dại kia do Phật kể rằng anh chàng dùng