et le néant. Có thể tóm tắt tư tưởng của Sartre vào mấy điểm sau
đây:
a) Trước hết, Sartre cực lực đả kích quan niệm bản tính con
người của triết học cổ truyền Tây phương. Platon và Anstote chủ
trương tất cả chúng ta đều là những cá vị của một loài: Các con
trâu giống nhau thế nào, các con người ta cũng giống nhau như
thế, vì các vật trong một loại nhất thiết phải giống nhau. Ý tưởng
này đã được học thuyết thánh Tô-ma sửa chữa và bổ túc, mang
đến cho triết học một quan niệm đích thực hơn về nhân vị con
người: Chúng ta giống nhau về bản tính, ai cũng là người như ai,
nhưng làm người cũng có trăm ngàn cách làm người, có người
làm thánh, có người làm quỷ, có người chí khí tài cao, có người
sống lầm lì như khối thịt. Tuy nhiên triết học Ki-tô giáo nhận định
rằng con người là vật thụ tạo và hữu hạn, nên con người không
được tự ý hủy diệt mình, hoặc sử dụng đời mình theo ý mình. Nói
thế không có nghĩa là con người không được quyền vươn lên; trái
lại Thiên chúa kêu mời con người “trở nên hoàn hảo như Thiên
chúa” (Thánh kinh). Tóm lại, theo Ki-tô giáo và những triết học
chịu ảnh hưởng tôn giáo đó như Descartes, Marcel, Jaspers v.v...,
con người là con của Thiên chúa và được Thiên chúa kêu mời
vươn lên mức toàn thiện.
Sartre không nghĩ thế. Việc đầu tiên của ông là chối bỏ
Thượng đế và không nhận con người là thụ tạo của Ngài. Hơn
nữa ông chủ trương cứng rắn: Không có bản tính con người. Con
người phải tự tạo ra bản tính của mình. Trong ý đó, ông thường
viết: “Bản tính đến sau hiện sinh”. Câu này có nghĩa là: Cuộc đời
của ta chỉ có ý nghĩa do ta tạo nên cho nó, trước đó không có bản
tính hay ý nghĩa nào hết. Sartre còn viết: “Con người phải tự phát
minh ra mình”, nghĩa là tự ý muốn sống thế nào thì sống, miễn