ta chọn nó mà nó tốt), chúng ta dễ hiểu tại sao Sartre lại dám chủ
trương “chúng ta bị lên án phải tự do”: Chính sự chọn của ta
không bao giờ có lý do, sự lựa chọn đó hoàn toàn tự ý ta. Như
vậy nếu chọn là tự chọn và tự chọn là tự do, thì quả thực ta tự do
luôn và không làm sao tránh được tự do.
Dự phóng là dự tính. Sinh hoạt là diễn tiến, là hướng về tương
lai, nên con người không thể không có dự phóng. Sartre thu gồm
tất cả các dự phóng của con người vào ba loại và ông gọi là ba
“phạm trù của sinh hoạt con người”. Đó là: Làm, có, là: “Les trois
grandes catégories de l’existence humáine concrète: Faire, avoir,
être”. Sau đó ông cho rằng phạm trù “làm” có tính chất tạm thời;
nó chỉ là phương tiện để thể hiện hai phạm trù kia mà thôi. Thành
thử kết cục chỉ còn hai phạm trù “có” và “là” (gần giống như hai
phạm trù chiếm hữu và hiện hữu của Marcel).
Chúng ta cần biết qua mấy phạm trù này của Sartre, vì ông
thường phân tích các trạng thái sinh hoạt con người theo chiều
hướng đó: Con người dùng hành động (làm) để đạt được những
sở nguyện của mình, như có căn nhà, có địa vị, có gia đình. Tuy
nhiên càng có nhiều càng chán ngán, càng thấy mình có nhiều
càng tham vọng, vì con người muốn có tất cả, và muốn mình là
tất cả. Đó là một tham vọng hão huyền, không thể nào thực hiện
được; nhưng con người cũng không thể nào không có tham vọng
đó: Thành thử bản tính con người là chạy theo những dự phóng,
và những dự phóng đó cứ càng ngày càng biến xa đi. Vì thế
Sartre đã kết luận rằng “đời người là một đam mê vô ích”. Ba
phạm trù (làm, có, là) tượng trưng ba loại dự phóng căn bản nhất
của con người theo phương tiện chủ thể: Đó là những ý hướng
sâu xa nhất của con người. Những ý hướng đó dẫn ta chạy theo
những đối tượng rõ rệt. Chính những đối tượng này đã cụ thể
hóa những ý hướng kia. Thực ra những phân tích của Sartre về