các đối tượng này tỏ ra có thể và dễ hiểu, vì ở đây ông đưa ra
những sự kiện, chứ không bàn suông về những phạm trù trừu
tượng nữa. Và đó cũng là đường lối chúng ta theo ở đây để tìm
hiểu nhân sinh quan của Sartre.
Bây giờ đã đến lúc chúng ta nhìn thẳng vào ba dự phóng
được Sartre coi là căn bản nhất của con người: Dự phóng có, dự
phóng thông cảm với tha nhân và dự phóng vãn hồi bản thân.
A - Dự phóng có.
Ta chỉ muốn có cái ta thiếu, khi ta cảm thấy ta thiếu. Cũng nên
nhớ: Sartre định nghĩa bản chất ý thức con người là vô thể tính
(néantise); sánh với sự vật là cái chi đầy ứ và rắc cấc, Sartre bảo
bản chất con người là rỗng hổng (décompression): Vì rỗng hổng,
nó mới thâu nhận được các sự vật không phải là nó, còn các sự
vật đầy ứ (massif) nên chúng chỉ là chúng và không thể thâu nhận
được cái chi khác. Bởi vậy khi gọi bản tính con người là sự thiếu
(manque), Sartre cũng chỉ nhắc lại tính chất rỗng hổng của bản
tính đó thôi.
Sartre viết: Le pour-soi choisit parce qu'il est manque, la
liberté ne fait qu’un avec le manque, elle est le mode d’être
concret du manque d’être. Xin tạm dịch là: “Chủ thể lựa chọn, vì
chủ thể là sự thiếu; tự do và sự thiếu đó cũng là một, vì tự do chỉ
là tình trạng của sự thiếu kia”. Cái nó thiếu đó có thể là bát cơm,
manh áo, có thể là xe hơi nhà lầu, có thể là một người đẹp và
cũng có thể là một sức sống tuyệt mỹ. Mọi sự tùy ở tình trạng
“thiếu” hiện nay của mỗi người. Ở nước ta cũng như nhiều nước
chậm tiến, đại đa số dân chúng sống nghèo khổ bên cạnh một số
nhỏ những ông giàu sang như vua chúa đời xưa: Người dân
nghèo thiếu cái chi? Họ thiếu những cái cần thiết nhất, cơm áo
cho họ và gia đình họ, sống hôm nay lo ngày mai. Họ ngẩn người