nỗi không dám quyết định, thì tình trạng này còn khốc hại cho
sinh hoạt tinh thần gấp ngàn lần những sai lầm kia). Miễn là đã
quyết định trong sự bình tĩnh và sau khi đã suy nghĩ đủ, người
hiện sinh tin tưởng ở giá trị hành động tự quyết của mình.
Chính trong hành động tự quyết, triết hiện sinh chứng tỏ hiện
sinh là giá trị sống, không phải là giá trị tư tưởng: Tư tưởng có
tính chất tất nhiên, cho nên những kết luận của toán học và luận
lý học đã nằm sẵn trong những câu tiền đề và nhất thiết được suy
diễn ra một cách chắc chắn và rõ ràng; trái lại hiện sinh của con
người không có tính chất tất nhiên, nhưng bất tất (contingence).
Kierkegaard hay nói giễu: “Nhóm Hégel không thể dùng suy luận
để kết luận rằng phải có tôi. Tôi không phải là một quá trình suy
tưởng của hệ thống Hégel”. Suy luận có tính chất phổ quát và tất
nhiên vì nó diễn tiến trong lãnh vực trừu tượng: Trái lại hiện sinh
thì đặc sệt những điều kiện cụ thể muôn màu, cho nên “không
bao giờ ta có thể dùng suy tưởng để tát cạn được hiện sinh”
(Marcel). Thành thử suy tưởng và hiện sinh là hai thế giới khác
hẳn nhau. Nói thế để chúng ta dễ thấy tại sao triết hiện sinh đề
cao tự quyết: Là vì dầu tôi giỏi luận lý đến đâu mặc lòng tôi cũng
không thể đưa ra một giải quyết trăm phần trăm thỏa mãn cho
thực tế: Thực tế vẫn còn những dấu hỏi bắn vào mặt tôi, cho nên
kết cục tôi vẫn phải liều một phần. Liều là một danh từ hiện sinh:
Chính trong cái liều này, tôi tỏ ra mình là chủ thể. Liều, tôi đã
nhận lấy trách nhiệm làm người. Liều, tôi đã tự đảm nhận.
Tất nhiên mỗi tự quyết đều là tự tuyển, cho nên tính chất liều
đây chỉ là chỗ vượt quá luận lý mà thôi, không thể là thiếu suy
nghĩ. Con người hiện sinh ưu tư về định mệnh của mình và ưu tư
tìm cách phát triển nhân cách của mình tới mức toàn hảo, cho
nên tự quyết luôn luôn mang nặng những suy nghĩ và ưu tư.