Chương 4. KIERKEGAARD ÔNG TỔ HIỆN
SINH TRUNG THỰC
Người ta hay nói: Triết hiện sinh là triết học của những kỳ
chiến bại và người ta đã nhận xét rất đúng rằng triết hiện sinh đã
phát xuất ở bên Đức với Heidegger và Jaspers liền sau khi Đức
quốc thất trận năm 1918, còn ở Pháp thì mãi sau đại chiến thứ II
nó mới xuất hiện với những loạt sách của Sartre và Marcel. Nói
thế chỉ đúng một phần: Nói rằng triết hiện sinh đã được đón chào
trong quảng đại quần chúng sau những thời kỳ bại hoại của xã
hội thì đúng, còn nói triết hiện sinh phát sinh trên bức tường đổ
của chiến tranh thì không đúng. Triết hiện sinh cũng thực sự mọc
lên trong đống đổ nát, nhưng là đổ nát tinh thần. Người thường
dân sống trong khuôn khổ xã hội, nên bao lâu cái xã tắc còn
đứng thì người ta còn sống thản nhiên, không ưu tư và suy nghĩ
gì hết. Nhưng dưới con mắt tinh tường của triết gia, thì nơi cái xã
hội mà ai cũng cho là vững kia, đã hiện ra những dấu hiệu của
suy đồi. Vì thế Socrate đã nhìn thấy trước những suy vong của
Hy Lạp, những suy vong bắt nguồn tự trong những thói xấu và
những tệ đoan đang nghiễm nhiên được công nhận làm tôn chỉ
hành động cho những “người lương thiện”. Người “lương thiện” là
người của chế độ, cho nên người đó không thể nhận thức được
sự thực, và không thể nào hoài nghi về sự chính trực của chế độ.
Chỉ có triết gia mới có khả năng nhận thức. Socrate đã nhận thức
về thời đại ông, và Kierkegaard đã nhận định về thời đại mình.
Triết học Kierkegaard là bản tuyên án tử hình cho triết học duy
niệm mà đại diện đáng kể nhất là Hégel cũng như xưa Socrate đã
lên án bọn ngụy biện (sophistes) và tất cả những triết gia muốn
phóng thể con người bằng cách dạy con người quên mình đi.