vợ này ông mới có con, bảy người con, Soren (triết gia của chúng
ta) là con út. Hầu hết những người con này đều chết yểu, cho nên
trong gia đình ông ai cũng tin rằng đó là “tai họa Thiên chúa giáng
xuống trên đầu kẻ lộng ngôn xưa kia”. Sau này chính triết gia
Kierkegaard nhiều lần viết trong nhật ký của ông rằng: Cha của
ông là một ngành khô héo sẽ chứng kiến cái chết của các con
mình, vì các người con đó không một ai sẽ sống đến tuổi ba mươi
bốn. Thực sự, họ đều thay nhau chết sớm vào tuổi thiếu niên,
hoặc cùng lắm ba mươi ba tuổi. Cũng vì thế, khi được ba mươi
bốn tuổi Soren Kierkegaard đã ăn mừng một bữa với chúng bạn.
Tuy nhiên nỗi mừng thì ít mà nỗi lo thì nhiều. Tất cả đời sống
của Kierkegaard đã thấm nhuần những âu lo của thân phụ ông.
Cha ông yêu người con út, và thường chỉ thích dẫn cậu bé đi chơi
với mình qua những nơi tịch mịch. Mẹ ông không ảnh hưởng chi
đến đời tình cảm và suy tưởng của ông. Mẹ ông qua đời khi ông
đã hai mươi bốn tuổi, vậy mà các trang nhật ký của ông không
dành phần nào cho bà hết. Trái lại hình ảnh cha ông luôn luôn
xuất hiện và khi cha ông quá cố năm 1838, (lúc đó ông được hai
mươi lăm tuổi) ông đã vô cùng bồi hồi ghi lại những dòng sau
đây: “Cha tôi vừa qua đời. Ước chi ngài sống thêm mấy năm nữa.
Tôi coi cái chết của ngài như hy sinh cuối cùng ngài đã phải chịu
vì yêu tôi. Cái chết này chẳng những không chia rẽ ngài và tôi,
nhưng thực sự cha tôi đã chết vì tôi ngài chết để tôi sống. Tất cả
nhúng gì tôi đã thừa hưởng của ngài, nhất là hình ảnh của ngài,
đối với tôi, nay càng trở nên quý giá”.
Nhìn lại cuộc đời của Kierkegaard người ta thấy khi ở trường
tiểu học, cậu đã tỏ ra ngoan ngoãn và trầm ngâm khác thường.
Chúng bạn thường chế cậu ta là “con ông sãi”. Chính
Kierkegaard cũng tự nhận là “không hề biết tuổi thiếu nhi”. Trong
nhật ký sau này, ông tự xưng là “con của tuổi già”. Ông suy nghĩ