Nói thế, chúng tôi chỉ có ý nhắc rằng: Triết hiện sinh đã phát
xuất tự những suy tưởng của Kierkegaard, còn Heidegger hay
Jaspers, Sartre hay Marcel chẳng qua chỉ là những triết gia đào
sâu thêm và có công phổ biến. Về điểm này Wahl đã viết rất
đúng: “Triết hiện sinh đã khởi sự nơi những suy niệm thuần chất
tôn giáo của Kierkegaard... tất cả nền triết học hiện sinh đã phát
xuất từ những suy nghĩ của Kierkegaard về những uẩn khúc của
đời sống tư của ông, về cuộc đính hôn của ông và về sự ông
không thể hiệp nhất với vị hôn thê của ông”.
Tóm lại triết gia thấy trước những đổ nát tinh thần, còn quần
chúng chỉ nhận thức những đổ nát đó qua những sụp đổ vật chất
mà thôi. Triết học Kierkegaarđ phải đợi một thế kỷ sau mới được
người đời hưởng ứng. Năm 1845 là niên hiệu cuốn Etapes sur le
chemin de la vie (Những chặng đường đời) được coi là giữa mùa
hoa của đời tư tưởng Kierkegaard. Năm 1945 được coi là lúc triết
hiện sinh đã trở thành toàn thịnh.
Soren Kierkegaard sinh ngày 5 tháng 5 năm 1813, tại
Copenhague. Thân phụ ông là Miken, một chủ tiệm tạp hóa khá
giả, tính tình bi quan và độc đoán. Ông ta bi quan vì nhiều
chuyện: Trước hết là chuyện gia đình ông và sau là chuyện tâm
hồn ông. Nguyên quán ở vùng nhà quê, miền Jutland, ông đã trải
qua những ngày nghèo khổ của cảnh chăn cừu: Chính ở đây, có
lần vì đau khổ quá, ông đã ngạo mạn chửi Trời. Tội này ám ảnh
ông suốt đời và còn ám ảnh đời người con út của ông là Soren
Kierkegaard. Sau khi được mười hai tuổi, Miken Kierkegaard bỏ
nhà quê để kiếm cách sinh nhai ở thủ đô Copenhague: Ông làm
nghề buôn mũ và tạp hóa, và chỉ trong ít năm đã trở thành giàu
có. Khi được tứ tuần, ông thấy không cần buôn bán nữa: Của đã
dư dật mà tâm hồn ông cần được an tĩnh để cầu nguyện. Giữa
lúc đó, bà vợ thứ nhất của ông chết; ông cưới bà thứ hai, và đời