TRIẾT HỌC HIỆN SINH - Trang 78

chướng ngại đời sống tôn giáo của ông. Mà đối với Kierkegaard
thì bất cứ ai đều phải vươn lên tới giai đoạn tôn giáo (stade
religieux).

Giai đoạn tôn giáo. - Năm 1840, Kierkegaard đính hôn với

nàng Régine, nhưng, như chúng ta biết, chỉ sau mấy ngày ông đã
viết thư cho nàng để xin hủy bỏ lời giao ước. Trong quãng bảy
tám tháng trời, mối tình dở dang đó giày vò Kierkegaard và
Régine, cho đến ngày 11 tháng 8 năm 1841, Kierkegaard gửi trả
lại nàng Régine chiếc nhẫn đính hôn, và ngày 11 tháng 10 năm
đó, hai bên mới hoàn toàn đoạn tuyệt với nhau. Về quãng đời này
của Kierkegaard, R.Vemeaux đã viết: “Thấy rằng không thể làm
hiệp ý đồng với nàng, chàng nhất định bẻ gãy cuộc đính hôn.
Những để nàng khỏi quá đau đớn, chàng tìm cách dập tắt ái tình
trong hồn nàng. Tâm hồn chàng tơi bời, khi chàng làm bộ lạnh
lùng với nàng trong nhiều tháng. Khi cuộc đoạn tuyệt đã xong,
Kierkegaard còn lại một mình với một mình Thiên chúa, để sẵn
sàng chu toàn sứ mệnh của ông”. Sứ mệnh của ông là mang tôn
giáo lại cho triết học, và đem con người trở về với Thiên chúa:
Hai kẻ thù bắt buộc ông so kiếm là triết học duy thức của Hégel
và hàng giáo phẩm trưởng giả nước Đan Mạch thời đó. Một điều
ai cũng thấy là sức hoạt động văn hóa của Kierkegaard bắt đầu
tự sau năm đoạn tuyệt với người vợ chưa cưới của ông.

Giai đoạn tôn giáo là giai đoạn khó hiểu nhất trong cuộc đời và

trong các sách vở của Kierkegaard. Chúng ta chỉ cần nhớ vài
điều căn bản sau đây. Trước hết, ông gọi đời đạo hạnh là sinh
hoạt thông thường, sinh hoạt trong phạm vi của phổ thông (vivre
dans le géneral). Nói cách khác, đời đạo hạnh là đời hợp lý, bởi
vì đạo hạnh là luân lý mà luân lý là sống theo những luật lệ mà
lương tri con người ai cũng thấy là cần. Kierkegaard quen lấy
Socrate làm điển hình cho con người đạo hạnh. Trái lại đời tôn

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.