“hai chuyển động vô cùng, un double mouvement infini” (p.XIII):
Một là sự nhẫn nại vô cùng (la résignation infinie), hai là tin tưởng
sẽ vãn hồi được tất cả những gì mình đã hiến dâng cho Thiên
chúa (la répétition). Cả hai chuyển động này cùng vượt xa trên
sức của luận lý Hégel và luận lý Socrate.
Ta thử xem chuyển động thứ nhất: Vô cùng nhẫn nại.
Gương thánh nhân còn đó: Tổ phụ Abraham đã hy sinh tất cả
vì tin yêu Thiên chúa. “Nếu tôi là một vị anh hùng của bi kịch Hy
Lạp, và nếu tôi phải hy sinh như Abraham, tất nhiên tôi biết rõ
những điều phải làm: Tôi sẽ không lân la ở xó bếp, sẽ không
chậm trễ khi đi đường... Và khi nhảy lên lưng ngựa, tôi sẽ tự nhủ:
Thế là hết hy vọng! Thiên chúa đòi tôi hy sinh Isaac. Tôi cam chịu.
Tuy nhiên tôi tin Ngài là tình yêu, cho nên tuy ngày nay tôi không
thể đối thoại với Ngài, nhưng tôi tin sau này Ngài sẽ thương tôi
cách khác”. Ừ, giá tôi hành động như thế, chắc bọn điên rồ (bọn
Hégel sẽ khen tôi là cao thượng hơn Abraham; họ cho cử chỉ của
Abraham thiếu thơ mộng và có vẻ đơn giản quá. Nhưng chính thế
là họ lầm lắm. Chí can trường của tôi chẳng qua chỉ là một can
đảm trong phạm vi loài người, còn Abraham mới thực là người có
đức tin. Abraham đã làm gì? Thưa cụ đã không đến quá sớm và
cũng không muộn quá. Cụ thắng con lừa và thong thả lên đường.
Trong suốt thời gian đi đường, cụ không phút nào không tin
tưởng vào Thiên chúa. Cụ tin vì phi lý, vì điều đó loài người
không thể toan tính được; phi lý vì Thiên chúa đòi hy sinh Isaac,
rồi chính Ngài lại trả lại Isaac. Thái độ của người anh hùng theo
Hy Lạp khác thái độ của Abraham, người cha của tín hữu. Người
anh hùng làm những việc phi thường, nhưng là việc còn trong
sức loài người; cả khi ông ta tin vào sự Thượng để sẽ đền lại cho
ông ở đời sau ông vẫn còn ở trong nhân đạo; trái lại Abraham đã
đi vào con đường thiên đạo; ông hoàn toàn tin vào Thiên chúa, và