chuẩn" tương xứng, Renouvier công kích 3 phương pháp đầu tiên (phương pháp
phù hợp, phương pháp khác biệt và phương pháp thặng dư) tuyệt đối không bao
hàm - theo lời ông, - cách đo lường những mức độ về cái nhiên tính mà ba
phương pháp ấy có thể đạt tới và "không phải, nói cho đúng, là phương pháp."
Rồi ông đề cập đến phương pháp thứ tư.
Tôi không chỉ trích phương pháp thứ tư: tương biến pháp, phải gọi là phương
pháp căn cứ vào những biến đổi liên hệ thì đúng hơn nói tóm lại, phương pháp
căn cứ vào những hàm số tự nhiên. Tôi sẽ nói ngược lại. Đó là phương pháp
phong phú và hoàn hảo hơn phương pháp quy nạp đơn giản, đó là phương pháp
tổng quát để thiết lập những định luật về hiện tượng vật lý. Với phương pháp ấy,
người ta vượt lên trên cuộc tầm cứu mờ tối dễ khiến hiểu lầm về mối tương quan
nhân quả giữa những hiện tượng đồng thời kế tiếp. Dù sự kiện là nguyên nhân
hay không, là kết quả hay không, vấn đề là xác định như thế nào và theo độ nào
sự kiện này phụ thuộc sự kiện kia. Cách phụ thuộc tổng quát ấy là kiến thức xác
thực của chúng ta về thiên nhiên, nhất là ở những lãnh vực trong đó tính chất của
các vấn đề và trạng thái tiến bộ của sự sưu tầm khiến người ta có thể đo lường và
tính toán. Sự thay thế ý niệm hàm số vào ý niệm nguyên nhân là tính chất của vật
lý học hiện đại (1) mà các nhà lôgích học còn ít nhìn nhận quá.
Mill phát biểu công chuẩn về phương pháp thứ tư như sau: "Một hiện tượng nào
biến đổi mỗi lần một sự kiện khác biến đổi, là một nguyên nhân hay một kết quả
của sự kiện thứ nhì hay liên hệ với sự kiện này bằng một tương quan nhân quả
nào đó". Mối tương quan ấy bắt buộc phải ở trong tình trạng bất định mà Mill đã
quan sát rất rõ ràng; đó là dấu hiệu hiển nhiên của một phương pháp không sưu
tầm riêng biệt các nguyên nhân, nhưng nhằm những hình thức rất khác của kiến
thức. Khi áp lực của khí biến đổi theo khối, khi tốc độ của một trọng lượng đang
rơi biến đổi với thời gian kể từ hồi bắt đầu rơi… chúng ta không thể gán một ý
nghĩa rõ ràng nào cho mối tương quan nhân quả giữa những hiện tượng được
nghiên cứu trong cách phụ thuộc hỗ tương, và những điều quy nạp của chúng ta,
nếu có, không suy luận về việc vạch rõ các nguyên nhân… Tương biến pháp thiết
lập những định luật. Một mặt, những định luật này, khi được cứu xét và trừu
tượng hoá một cách mong muốn, cấu thành một khoa học thực nghiệm thật sự;
mặt khác, nó cung cấp tài liệu chắc chắn cho các giả thuyết xây dựng thuộc đủ