đại tư sản học thức cao ở thành Vienne, song chẳng vì thế mà chàng Ludwig lại
không sống một cuộc đời lãng tử lắm thăng trầm, bị cuốn vào vòng xoáy của một
trong những cuộc phiêu lưu trí tuệ độc đáo nhất và cũng bị ngộ nhận nhiều nhất
của tư tưởng hiện đại. Sau những năm theo học kỹ sư chế tạo máy ở Berlin
(1906) rồi ở Manchester, năm 1912, ông ghi danh vào trường Trinity College ở
Cambridge. Tại đây, từ 1912 đến 1913 ông học với Bertrand Russell mà ông sẽ
trở thành bạn. Về sau Russell nhớ lại một kỷ niệm gặp gỡ lần đầu với
Wittgenstein như sau:
"Vào cuối học kỳ đầu tiên của anh tại Cambridge anh đến gặp tôi và nói, "Xin
thầy cho em biết em có phải là một thằng dốt đặc hay không?" Tôi đáp, "Anh bạn
yêu quý, tôi không biết. Sao anh lại hỏi tôi như thế?" Anh nói, "bởi vì nếu em là
một thằng dốt đặc, em sẽ trở thành một nhà du hành vũ trụ; nhưng nếu không, em
sẽ trở thành một triết gia." Tôi đề nghị anh, trong kỳ nghỉ, viết cho tôi một vài
điều về một đề tài triết học nào đó rồi sau đó tôi có thể nói cho anh biết anh có
phải là một thằng khờ hay không. Đầu học kỳ tiếp theo, anh mang đến cho tôi
những gì anh đã viết theo gợi ý này. Sau khi chỉ đọc một câu đầu tiên, tôi đã bảo
anh ta: "Không, anh không được làm một nhà du hành vũ trụ.""
Wittgenstein say mê học triết, viết rất nhiều ý nghĩ vào các sổ ghi chép (Carnets).
Năm 1913 ông rút lui về trong cô đơn, nơi một vịnh biển hoang vắng xứ Na-Uy,
ở Skjolden và ông bí mật phân phối nặc danh, phần lớn gia tài của cải mà ông là
thừa kế chính, cho những nhà thơ bất hạnh, rồi trong thế chiến 1914 - 1918 ông
phục vụ trong quân đội Ao với tư cách chí nguyện quân. Từ 1920 đến 1926
Wittgenstein lại tình nguyện làm một thầy giáo làng nơi nhiều vùng cao, vùng xa
của nước Ao và dường như khước từ mọi hoạt động triết học. Trong thời gian đó,
bản thảo cuốn Tractatus logico-philosophicus (Khảo luận triết học lôgích) mà ông
gửi cho Bertrand Russell khi còn làm tù binh ở Ý trong chiến tranh, đã được ông
này lo xuất bản ở London. Đây là tác phẩm duy nhất trong sự nghiệp trước tác đồ
sộ của ông, được xuất bản lúc sinh thời.
Quay về Cambridge năm 1929, ông được bổ nhiệm trợ giảng ở Trinity College
(1930) rồi đến năm 1937 là giáo sư chính thức. Ông được vào quốc tịch Anh năm
1938. Bị động viên vào ngành quân y Anh quốc trong Đệ nhị Thế chiến, ông trở