(L’indentité de l’être) với những gì mà trí tuệ hoặc tư tưởng lĩnh hội. Trong bọ
Ennéades, Plotin, người khởi xướng Tân thuyết Platon vào thế kỷ thứ ba, lưu ý:
"Xưa kia Parménide cũng tán đồng học thuyết đó, trong ý nghĩa là ông giản qui
hữu thể và trí tuệ thành một và từ khước đặt hữu thể vào trong những vật khả
giác. Khi nói:
Vì suy tư và hữu thể là một
Ông nói rằng hữu thể thì bất động và dầu ông có thêm suy tư vào đó, nhưng ông
lại tước bỏ mọi vận động thể lý". (trích từ Les Présocratiques của Jean Paul
Dumont).
Như Plotin nêu rõ ở đây - ông này đặt trọng tâm vào việc bình luận Parménide
thông qua đối thoại mang tên này của Platon - thì việc đồng hoá hữu thể và trí tuệ
bao hàm hai luận đề:
· Hữu thể thì bất động và được miễn trừ khỏi mọi vận động
· Tri thức chân thực được giản qui vào việc lãnh hội cái khả niệm - là hữu thể,
còn những cái khả giác và những vật thể chỉ có thể là đối tượng của dư luận.
Như thế, trong hai con đường mở ra cho tư tưởng, chỉ con đường của hữu thể đưa
ta đến chân lý. Con đường của chân lý là con đường của hữu thể, con đường của
dư luận dẫn dắt đến vô thể hay hư vô * được hiểu theo nghĩa chặt chẽ không phải
là không có gì (rien) mà là:
Cái gì, vì luôn sinh thành và chuyển hoá, nên không hiện hữu
Cái gì, vì không được lãnh hội bởi trí tuệ, mà bởi dư luận, nên là nguồn gốc của
sai lầm.
* Hữu thể: l’être; vô thể: le non_être; hư vô: le néant; không có gì: rien; nhất thể:
l’Un; phức thể: le multiple.
PARMÉNIDE