thiên hướng triết lý và sự nghiệp bác học của ông. Một sự nghiệp trước tác đáng
kể, được viết ra bằng một ngôn ngữ tài tình, được khai sinh từ một cuộc đời miệt
mài học tập và suy tư; sự nghiệp đó bắt đầu bởi việc xuất bản, từ năm 1674 đến
1675, quyển Tìm kiếm chân lý (La Recherche de la Vérité) mà ngay từ sinh thời
của Malebranche đã có bảy ấn phẩm, không kể những bản dịch ra tiếng Anh,
tiếng Hà Lan, tiếng La tinh. Tiếp theo là Những đối thoại Kitô-giáo, Khảo luận về
thiên nhiên và ân sủng, Những suy niệm Kitô-giáo, Khảo luận về đạo đức, Những
cuộc thanh đàm về siêu hình học và về tôn giáo. Thêm vào đó là rất nhiều bài viết
về triết lý và khoa học cho tập san Nouvelles de la République des Lettres và Tạp
chí Journal des Savants. Từ 1699, Malebranche là hội viên Hàn lâm viện Khoa
học và ông đã trình bày trước viện một luận văn quan trọng về ánh sáng và màu
sắc.
Tác phẩm của ông đã gây ra nhiều tranh luận, nhất là với tu sĩ giăng-xê-nít
Arnauld cũng như với Bossuet và Fénelon. Ông tỏ vẻ bực bội vì không được
hiểu; ông tự nghĩ là mình chỉ muốn cho các linh hồn thấy sự hợp nhất tự nhiên
với Lý tính phổ quát.
TÌM KIẾM CHÂN LÝ (De la recherche de la Vérité).
Lần xuất bản đầu tiên của quyển Tìm kiếm chân lý vào năm 1674; chỉ đến năm
1712 tác phẩm mới xuất hiện cùng với toàn bộ phần Giải minh. Câu chuyện về
tìm kiếm chân lý cũng là câu huyện của Descartes, nhưng lập tức được hướng về
việc con người phải sử dụng tinh thần mình như thế nào để tránh sai lầm. Tâm
điểm là ở đó: sai lầm là phán đoán rằng sự vật giống như những gì mà các giác
quan tri giác về chúng và như tưởng tượng biểu thị về chúng, trong khi mà chức
năng của các giác quan đâu phải là để nhận thức, mà chỉ để thông tin cho sinh vật
- là chúng ta - về những gì lợi hay hại.
Phải luôn luôn dè chừng chống lại khuynh hướng phạm sai lầm, do sự sa đoạ
nguyên thuỷ, đã khiến cho linh hồn xa rời Thiên chúa. Tinh thần con người không
rút ra từ chính mình, nhưng nhận từ Thiên Chúa, vốn là lý tinh phổ quát, ánh sáng
cho mình. Bởi vì linh hồn vốn tự nhiên là hợp nhất với Thiên chúa, chứ không
phải với thể xác, tri thức không hề là cách nhìn của đôi mắt, mà là thị kiến nơi