Thuyết tương đối
(La relativité)
Về thuyết tương đối, trước tiên cần xua tan đi những ý tưởng sai lầm. Trước nhất,
không phải Einstein đã phát minh ra thuyết tương đối, mà là Galilée. Thứ nhì,
không phải chỉ có một mà là nhiều thuyết tương đối.
Người ta sẽ tránh được sự lẫn lộn bằng cách phân biệt những nguyên lý tương đối
(principes de relativité ) - có hai nguyên lý: nguyên lý tương đối giới hạn và
nguyên lý tương đối nới rộng/ tổng quát - với những thuyết tương đối (có ba
thuyết chính: thuyết của Galilée và Newton, thuyết tương đối giới hạn của
Einstein và thuyết tương đối nới rộng cũng của Einstein).
Nguyên lý tương đối giới hạn(Le principe de relativité restreinte)
Nguyên lý tương đối giới hạn, được Galilée phát biểu vào đầu thế kỷ XVII, đánh
dấu sự bắt đầu của vật lý học hiện đại.
Trong những ngôn từ cụ thể mà Galilée dùng, nguyên lý này phát biểu rằng:
những con bướm trên một chiếc tàu thuỷ bay chấp chới theo cùng một cách, dầu
rằng chiếc tàu thuỷ đang neo đậu ở bến cảng hay đang lướt sóng với vận tốc tuần
dương trên Địa Trung hải. Bằng ngôn từ thông thái hơn thì thế này: nguyên lý
tương đối giới hạn phát biểu rằng những định luật của thiên nhiên - chẳng hạn
những định luật chi phối sự bay của những con bướm - là như nhau trong một
khung quy chiếu (un référentiel) - cái khung mà người ta định tiêu điểm những
hiện tượng bằng tương quan với nó, ở đây là con tàu - và trong một khung quy
chiếu khác đang di động theo chuyển dịch đồng dạng (en mouvement de
translation uniforme) so với khung quy chiếu đầu (chuyển động theo đường
thẳng, không gia tốc). Hay là thế này nữa: đối với việc mô tả những định luật
thiên nhiên, thì những khung quy chiếu trong chuyển dịch đồng dạng đối với
nhau là tương đương. Nguyên lý này định thái một nhận xét thường nghiệm quen
thuộc: trong một chiếc máy bay đang đạt vận tốc tuần la (à vitesse de croisière)
thì mọi việc xảy ra giống hệt như thể máy bay đang nằm yên trên mặt đất.