Triết học phân tích Anh Mỹ
(La philosophie analytique anglo-saxonne)
Người ta thường đặc trưng hoá sự lên ngôi của triết học phân tíchnhư một "khúc
quanh ngôn ngữ học" (un tournant linguistique) hệ tại chỗ coi ngôn ngữ là chủ đề
trung tâm của suy tư triết lý. Ngoài sự kiện dành trọn vai trò trọng yếu cho ngôn
ngữ vốn là một nét cấu tạo của mọi tri thức luận đương đại, người ta dễ đi đến
chỗ giản quy triết học phân tích vào triết học về ngôn ngữ. Một sự nhắc lại về
nguồn gốc và những bước phát triển của triết học phân tích sẽ nêu bật biệt tính
của những tương quan mà nó tạo ra giữa ngôn ngữ và phân tích.
Lôgích và phân tích (Logique et analyse)
Khi gợi hứng từ khoa lôgích học hoàn toàn mới mẻ về những tương quan để định
nghĩa ý nghĩa, Pierce đã đồng thời khai trương một cách đặt vấn đề (nghiên cứu
những hệ thống tượng trưng dưới khía cạnh cú pháp, ngữ nghĩa và thực dụng) và
một phương pháp phân tích triết học. Từ 1879, Frege phát minh một loại văn tự
tượng hình mô thể hóa và công lý hoá (une idéographie formalisée et
axiomatisée) nó biểu lộ khả năng nhận thức những dấu hiệu, cùng lúc nó cung
cấp những sơ đồ phân tích hoàn toàn mới mẻ. Thay cho ưu thế của ý tưởng đặc
trưng hoá thời đại cổ điển là ưu thế của dấu hiệu xác định trong chiều hướng kép
của ý nghĩa và tham chiếu và của câu trần thuật (phrase déclarative) mà ý nghĩa là
một tư tưởng và sự tham chiếu là một giá trị chân lý. Thay cho tính độc quyền
xưa cũ của sơ đồ thuộc từ (schéma prédicatif) là sự phân tích những mệnh đề
thành khái niệm/ đối tượng nó cho phép việc thấu hiểu những câu thuộc từ
(phrases prédicatives) F(x) như mẫu "Marie là một phụ nữ" cũng như việc nhận
ra biệt tính của những phát biểu tương quan (énoncés relationnels) R(x,y) như
mẫu "Georges yêu Marie". Tính phân tích của những mệnh đề lôgích được định
nghĩa, không còn như là sự nhị bội vô bổ của chủ từ bởi thuộc từ (như nơi
Descartes, Kant), mà như khả tính diễn dịch có quy tắc - không cần đến sự trợ
giúp của một trực quan nào - từ những công lý. Thay cho một triết học về chủ thể
là một cách đặt vấn đề về khái niệm nó tránh mọi phái sinh duy tâm lý bằng cách
đảm đương thực tại hữu thể học của những tư tưởng - ngược với những biểu